© Nguyễn Viết Thắng giới thiệu, dịch và chú giải. Không đăng lại trên những trang Web với mục đích thương mại.

Thứ Sáu, 17 tháng 2, 2017

Thơ Sara Teasdale


Sara Teasdale (tên khai sinh: Sara Trevor Teasdale, còn tên sau khi lấy chồng là: Sara Teasdale Filsinger, 8 tháng 8 năm 1884 – 29 tháng 1 năm 1933) – nữ nhà thơ Mỹ.

Tiểu sử:
Sara Teasdale sinh ra trong một gia đình trung nông ở St. Louis, Missouri. Phần lớn cuộc đời sống ở St. Louis, chỉ những năm cuối đời mới chuyển về sống ở New York. Năm 1907 in một số bài thơ trên một tờ báo địa phương và cũng trong năm này bà in tập thơ đầu tiên. Năm 1918 tập thơ Những bài tình ca (Love Songs) nhận được ba giải thưởng: giải của Hội thơ ca Đại học Columbia, giải của Hội thơ ca Mỹ và giải Pulitzer. Năm 1933 in tập thơ cuối cùng: Chiến thắng lạ lùng (Strange Victory).
Sara Teasdale tự tử bằng cách uống thuốc ngủ quá liều ngày 29 tháng 1 năm 1933. Bà được chôn cất tại nghĩa trang Bellefontaine ở St. Louis, Missouri.

Sự tự tử của Sara Teasdale và bài thơ “I Shall Not Care”
Có một giai thoại về việc tự tử của nữ thi sĩ liên quan đến bài thơ “I Shall Not Care”. Mặc dù bài thơ được viết vào năm 1915, còn Sara tự tử 18 năm sau đó (năm 1933), cho thấy khi viết bài thơ này cô đã suy ngẫm về cái chết. Thời đó Sara yêu nhà thơ Vachel Lindsay (có thể đây chỉ là tình yêu đơn phương, hoặc do sự tính toán) nhưng khi Lindsay ngỏ lời muốn cưới Sara thì cô đã từ chối. Ngay sau đó Sara đi lấy Ernst Filsinger, một doanh nhân giàu có và hai người sống với nhau được 15 năm. Còn Vachel Lindsay do thất tình cộng với những áp lực về tài chính và mặc dù có vợ  con nhưng đã tự tử bằng cách uống thuốc sát trùng lysol năm 1931. Hai năm sau đó Sara Teasdale cũng tự tử bằng cách uống thuốc ngủ quá liều.

Về bài thơ There Will Come Soft Rains
Sẽ có mưa nhẹ (tiếng Anh: There Will Come Soft Rains) là một bài thơ có 12 dòng của Sara Teasdale in trong tập Flame and Shadow (Lửa và bóng) năm 1920. Bài thơ là sự tưởng tượng về một bãi chiến trường sau khi chiến tranh kết thúc. Điểm đặc biệt của bài thơ là sự ám chỉ đến sự tuyệt chủng của con người sau chiến tranh, ý tưởng này chưa hề phổ biến ở thời đó, vũ khí hạt nhân chỉ được phát minh 25 năm sau đó.
*Bài thơ này được trích dẫn trong truyện ngắn cùng tên năm 1950 của Ray Bradbury.
*Nhà soạn nhạc người Nga Mieczyslaw Weinberg sử dụng bản dịch tiếng Nga của bài thơ trong phần thứ 3 của Requiem Op.96 (1967) của ông.
*Trong trò chơi điện tử Fallout 3 năm 2008, con Mister Handy Robot ngâm thơ này để tưởng niệm các con chết lâu của gia đình chủ của nó ngày xưa.
*Các dòng 10 và 12 được trích dẫn trong phim Khu rừng tự sát (The Forest) năm 2016.

Tác phẩm:
- Helen thành Tơ-roa và những bài thơ khác (Helen of Troy and Other Poems, 1911)
- Sông ra biển (Rivers to the Sea, 1915)
- Những bài tình ca (Love Songs, 1918)
- Lửa và bóng (Flame and Shadow, 1920)
- Chiến thắng lạ lùng (Strange Victory), 1922)


Một số bài thơ



SẼ CÓ MƯA NHẸ
(There will com soft rains)

Sẽ có mưa nhẹ và mùi của đất đai
Và tiếng hót của chim én lượn lờ bay

Và những con ếch dưới hồ trong đêm ca hát
Và hoang dã cây mận trong vườn trắng toát

Chim sáo hét với bộ lông màu lửa của mình
Sẽ đậu xuống bờ rào và sẽ hót lên

Và sẽ không ai về chiến tranh còn nhớ
Ngày ấy qua rồi, nhớ làm gì quá khứ

Không ai nhớ, chẳng cây cỏ, chim muông
Nếu như loài người chết hết ở trần gian

Và mùa xuân buổi bình minh thức giấc
Chắc gì sẽ biết rằng chúng ta biến mất.


There will come soft rains

There will come soft rains and the smell of the ground,
And swallows circling with their shimmering sound;

And frogs in the pools singing at night,
And wild-plum trees in tremulous white;

Robins will wear their feathery fire,
Whistling their whims on a low fence-wire;

And not one will know of the war, not one
Will care at last when it is done.

Not one would mind, neither bird nor tree,
If mankind perished utterly;

And Spring herself, when she woke at dawn
Would scarcely know that we were gone.


NHƯNG KHÔNG ĐẾN VỚI EM
(But not to me)

Đêm tháng Tư ngọt ngào và dịu êm
Hoa ngời trong ánh sáng
Thanh bình đến trong đôi bàn chân yên lặng
Nhưng không đến với em.

Đêm đem giấu trong ngực sự yên bình
Nơi mà em không bao giờ có
Tình yêu đêm này đến cho tất cả
Nhưng không đến với em. 


But Not To Me

The April night is still and sweet 
With flowers on every tree; 
Peace comes to them on quiet feet, 
But not to me.

My peace is hidden in his breast 
Where I shall never be, 
Love comes to-night to all the rest, 
But not to me. 


TA HÃY QUÊN
(Let it be forgotten)

Ta hãy quên, như bông hoa bị bỏ quên
Như ngọn lửa ánh vàng từng rực cháy
Ta hãy quên đến muôn đời, mãi mãi
Sẽ giúp cho ta già – người bạn thời gian.

Nếu có ai đấy hỏi thì hãy nói rằng
Đã quên rất lâu rồi, quên mãi mãi
Như lửa, hoa, như bước chân đau nhói
Đã chìm sâu vào trong tuyết lãng quên.

Let It Be Forgotten

Let it be forgotten, as a flower is forgotten,
Forgotten as a fire that once was singing gold,
Let it be forgotten for ever and ever,
Time is a kind friend, he will make us old.

If anyone asks, say it was forgotten
Long and long ago,
As a flower, as a fire, as a hushed footfall
In a long forgotten snow.


TÌNH YÊU ĐÃ ĐI QUA
(After Love)

Phép ma thuật đã không còn nữa
Ta gặp nhau như những người dưng
Anh đã không còn mầu nhiệm với em
Và em, đối với anh, cũng thế.

Anh từng là gió, còn em là biển
Mà giờ đây vẻ tráng lệ không còn
Em bây giờ giống như hồ nước đọng
Bên cạnh một dòng sông.

Hồ nước này không còn sợ bão giông
Không còn ngại gì thủy triều lên xuống
Nhưng nước ở đó vô cùng chát mặn
Và đắng cay cho cái vẻ yên bình.

After Love

There is no magic any more,
      We meet as other people do,
You work no miracle for me
      Nor I for you.

You were the wind and I the sea—
      There is no splendor any more,
I have grown listless as the pool
      Beside the shore.

But though the pool is safe from storm
      And from the tide has found surcease,
It grows more bitter than the sea,
      For all its peace.


  
CHÀNG TRAI VÀ NGƯỜI HÀNH HƯƠNG
(Youth and the Pilgrim)


Người hành hương đầu bạc đi khắp nơi
Xin người hãy làm ơn nói giùm tôi
Có miền đất nào Tình không có mặt
Và ở nơi bên bờ biển, cuối trời?

Tôi mệt mỏi với vị thần của mình
Và bây giờ tôi chỉ mong chạy trốn
Tôi cần có một con thuyền đi biển
Để lên đường, rẽ sóng vượt đại dương.

“Ta biết một nơi không hề có Tình
Con thuyền đi biển ở trong tay bạn
Hãy đâm vào ngực bạn bằng thanh kiếm
Bạn sẽ đến nơi mong muốn của mình”.

Youth And The Pilgrim

Gray pilgrim, you have journeyed far, 
I pray you tell to me 
Is there a land where Love is not, 
By shore of any sea?

For I am weary of the god, 
And I would flee from him 
Tho' I must take a ship and go 
Beyond the ocean's rim.

"I know a port where Love is not, 
The ship is in your hand, 
Then plunge your sword within your breast 
And you will reach the land." 


KHI TÌNH RA ĐI
(When Love Goes)

 – Ôi mẹ ơi, con mệt mỏi với tình
Không cười nổi, mái đầu con trĩu nặng
Hành hạ con những giấc mơ cay đắng
Con chỉ mong tình yêu chết cho nhanh.

– Hãy uống thứ thuốc mẹ sắc cho con
Thuốc sẽ mang lại cho con yên tĩnh.

– Nhưng đâu ánh bạc trong tiếng mưa bay
Đâu tiếng nhạc trong từng con sóng biển
Đâu rồi con chim vẫn hót suốt ngày
Để trái tim này vỡ ra từng mảnh?

– Trong cái đêm con đuổi tình ra đi
Tình yêu đã mang theo mình tất cả.

When Love Goes

O mother, I am sick of love, 
I cannot laugh nor lift my head, 
My bitter dreams have broken me, 
I would my love were dead.

"Drink of the draught I brew for thee, 
Thou shalt have quiet in its stead."

Where is the silver in the rain, 
Where is the music in the sea, 
Where is the bird that sang all day 
To break my heart with melody?

"The night thou badst Love fly away, 
He hid them all from thee." 


LỜI CẦU NGUYỆN
(A Prayer) 

Khi tâm hồn đã mệt mỏi trong tôi
Cảm thấy đui trước vẻ đẹp tuyệt vời
Cảm thấy điếc trước những lời của gió
Cảm thấy câm trước cơn bão niềm vui.

Khi con tim đã hờ hững, giá băng
Trước những lời quyến rũ của đàn ông
Nhưng xin cho tôi lại yêu lần nữa
Yêu vô tư, yêu say đắm, quên mình.

A Prayer

Until I lose my soul and lie 
Blind to the beauty of the earth, 
Deaf though shouting wind goes by, 
Dumb in a storm of mirth; 

Until my heart is quenched at length 
And I have left the land of men, 
Oh, let me love with all my strength 
Careless if I am loved again. 
****

EM KHÔNG CỦA ANH
(I am not yours)

Em không của anh, không mất trong anh
Không bị mất, dù lòng em ước muốn
Mất như ngọn nến buổi trưa thắp sáng
Mất như bông tuyết nhỏ giữa đại dương.

Anh yêu em, nhưng em theo số phận
Em là em cho câu trả lời anh
Hãy để em biến mất ở trong mình
Như ánh sáng biến mất trong ánh sáng.

Để em chìm trong tình yêu sâu kín
Để tình yêu làm cho điếc cho mù
Và trận cuồng phong của tình anh kia
Cuốn em đi như là cơn gió cuốn.

I Am Not Yours

I am not yours, not lost in you,
  Not lost, although I long to be
Lost as a candle lit at noon,
  Lost as a snowflake in the sea.

You love me, and I find you still
  A spirit beautiful and bright,
Yet I am I, who long to be
  Lost as a light is lost in light.

Oh plunge me deep in love—put out
  My senses, leave me deaf and blind,
Swept by the tempest of your love,
  A taper in a rushing wind.


EM CHẲNG QUAN TÂM
(I Shall Not Care)

Khi em chết trong tháng Tư đầy ánh sáng
Trời lắc tóc mưa ướt đẫm của mình
Và dù anh với trái tim vỡ tan
Em chẳng quan tâm lắm.

Em sẽ yên bình như cây cối sau mưa
Như những cành cây đẫm ướt
Sẽ im lặng hơn và con tim còn lạnh ngắt
Hơn cả anh bây giờ. 

I Shall Not Care

When I am dead and over me bright April 
Shakes out her rain-drenched hair, 
Tho' you should lean above me broken-hearted, 
I shall not care. 

I shall have peace, as leafy trees are peaceful 
When rain bends down the bough, 
And I shall be more silent and cold-hearted 
Than you are now. 



HÔN
(The kiss)

Tôi hy vọng rằng người ấy yêu tôi
Và người ấy đã hôn tôi đằm thắm
Nhưng tôi đây –  con chim bị thương rồi
Mà bay về phương nam – chắc không đến.

Dù vẫn biết rằng người ấy yêu tôi
Trong đêm này con tim tôi buồn bã
Nụ hôn kia không đến nỗi tuyệt vời
Như tất cả giấc mơ tôi từng có.

The Kiss

I hoped that he would love me, 
And he has kissed my mouth, 
But I am like a stricken bird 
That cannot reach the south.

For though I know he loves me, 
To-night my heart is sad; 
His kiss was not so wonderful 
As all the dreams I had. 


ĐAU
(Pain)

Sóng là con của biển
Giọt mưa con của mưa
Nhưng cơ thể ngời sáng
Phải chịu đau, ai ngờ?

Đêm là mẹ của sao
Gió là mẹ của bọt
Đời đầy ắp vẻ đẹp
Tôi ngồi nhà, tại sao?

Pain

WAVES are the sea's white daughters,
And raindrops the children of rain,
But why for my shimmering body
Have I a mother like Pain?

Night is the mother of stars,
And wind the mother of foam—
The world is brimming with beauty,
But I must stay at home. 



KHÓC
(A cry)

Ôi, có đôi mắt để cho anh nhìn ngắm
Và bàn tay để vui vẻ cho anh
Nhưng với người yêu của mình, tôi đành
Chỉ làm một giọng.

Ôi, có vòng ngực để anh dựa đầu lên
Và bờ môi để mà hôn âu yếm
Nhưng tôi đành cho đến ngày cuối tận
Chỉ khóc lên.

A Cry

Oh, there are eyes that he can see,
And hands to make his hands rejoice,
But to my lover I must be
Only a voice.

Oh, there are breasts to bear his head,
And lips whereon his lips can lie,
But I must be till I am dead
Only a cry.


VUI
(Joy)

Tôi như người hoang dã hát cho cây
Và cho những ngôi sao trời tôi hát
Tôi yêu, được yêu, chàng là của tôi
Bây giờ, cuối cùng tôi có thể chết!

Gió và lửa cháy lên trong người tôi
Con tim lửa và bài ca dành tặng
Tôi như đi trên cỏ, giữa sao trời
Bây giờ, cuối cùng tôi có thể sống! 

Joy

    I AM wild, I will sing to the trees, 
        I will sing to the stars in the sky, 
    I love, I am loved, he is mine, 
        Now at last I can die!

    I am sandaled with wind and with flame, 
        I have heart-fire and singing to give, 
    I can tread on the grass or the stars, 
        Now at last I can live!


NỢ
(Debt)

Tôi nợ nần gì anh
Người yêu tôi sâu nặng?
Người chẳng cho đôi cánh
Hay khúc hát cho lòng.

Nhưng tôi nợ người đó
Người yêu chỉ mình tôi
Tôi nợ cánh cửa nhỏ
Mở đường đi lên trời.

Debt

What do I owe to you 
Who loved me deep and long? 
You never gave my spirit wings 
Nor gave my heart a song. 

But oh, to him I loved, 
Who loved me not at all, 
I owe the little open gate 
That led through heaven’s wall.



MẮT XÁM
(Gray Eyes) 

Tháng tư, ngày anh đến
Với em, lần đầu tiên
Mắt em gặp mắt anh
Như lần đầu thấy biển.

Và bốn năm đã sống
Bốn tháng tư bên nhau
Đã nhìn ngắm sắc màu
Từ cành cây rủ xuống.

Và đôi mắt màu xám
Khi gặp ánh nhìn em
Là như thể mắt nhìn
Khi lần đầu ở biển.

Gray Eyes

It was April when you came
The first time to me,
And my first look in your eyes
Was like my first look at the sea. 

We have been together
Four Aprils now
Watching for the green
On the swaying willow bough;

Yet whenever I turn
To your gray eyes over me,
It is as though I looked
For the first time at the sea.


TRONG ĐÊM
(At night)

Tình yêu nói: “Thức và nghĩ về tôi”
Giấc ngủ: “Nhắm mắt đến sáng ngày”
Nhưng Giấc mơ đến đây và cười mỉm
Cô cứ làm theo cách của cả hai.

At Night

Love said, “Wake still and think of me,”
Sleep, “Close your eyes till break of day,”
But Dreams came by and smilingly
Gave both to Love and Sleep their way.

GIỜ CHƯA THAY ĐỔI ĐƯỢC
(It will not change now)

Giờ chưa thay đổi được
Mà sau nhiều năm thôi
Biệt ly và nước mắt
Không làm hại cuộc đời
Nó mạnh hơn cái chết
Và sẽ sống muôn đời
Đấy là thơ cho bạn
Khi tôi ra đi rồi.

It Will Not Change Now

It will not change now
After so many years;
Life has not broken it
With parting or tears;
Death will not alter it,
It will live on
In all my songs for you
When I am gone. 



Thơ Robert Frost



Robert Lee Frost (26 tháng ba năm 1874 – 29 tháng 2 năm 1963) – nhà thơ Mỹ bốn lần đoạt giải Pulitzer (1924, 1931, 1937, 1943).

Tiểu sử:
Robert Frost sinh ở San Francisco. Bố mất năm R. Frost lên 11 tuổi. Gia đình chuyển về Massachusetts, Frost học tiểu học ở Lawrence. Năm 1892 học Dartmouth College, các năm 1897-1899 học Đại học Harvard. Năm 1912 cả gia đình chuyển sang Anh, đầu tiên ở Glasgow, sau chuyển về Beaconsfield gần London. Thời gian này R. Frost in tập thơ đầu tiên A Boy's Will (Ước muốn của chàng trai, 1913). Tập thơ thứ hai North of Boston (Phía Bắc Boston) được độc giả và giới phê bình đánh giá cao.

Năm 1915 Frost quay trở về Mỹ tậu trang trại ở Franconia, New Hampshire nhưng cuộc sống vẫn khó khăn, phải đi dạy thêm ở các trường Đại học và đọc thơ ở các câu lạc bộ. Tập thơ Hampshire mới (New Hampshire, 1923) mang lại cho R. Frost giải thưởng Pulitzer đầu tiên năm 1924. Tập Toàn tập thơ (Colleted Poems, 1930) được tặng giải Pulitzer thứ hai. Hai tập Về phía xa (A Further Range, 1936) và Cây làm chứng (A Witness Tree, 1942) mang lại thêm hai giải Pulitzer. Tập thơ cuối cùng Trong rừng thưa (In the Clearing, 1962) bao gồm những bài thơ hay không kém những tập đầu tiên. Tổng thống John Kennedy đã mời R. Frost đọc thơ trong ngày nhậm chức của mình. Năm 1962 R. Frost sang thăm Liên Xô. Ông mất ở Boston.

Tác phẩm:
- Ước muốn của chàng trai (A Boy's Will, 1913)
- Phía Bắc Boston (North of Boston, 1914)
- Giữa núi đồi (Mountain Interva, 1916)
- Thơ chọn lọc (Selected Poems, 1923)
- Hampshire mới (New Hampshire, 1923)
- Con suối phía tây (West-Running Brook, 1928)
- Thơ chọn lọc (Selected Poems, 1928)
- Tuyển tập thơ (Colleted Poems, 1930)
- Toàn tập thơ (Collected Poems of Robert Frost, 1930)
- Về phía xa (A Further Range, 1936)
- Cây làm chứng (A Witness Tree, 1942)
- Mặt nạ của lý trí (Masque of Reason, 1945)
- Masque of Mercy (Mặt nạ của lòng nhân từ, 1947)
- Toàn tập thơ (Complete Poems of Robert Frost, 1951
- Trong rừng thưa (In the Clearing, 1962)

Một số bài thơ



CON ĐƯỜNG CHƯA ĐI
(The road not taken)

Con đường chia hai ngả giữa rừng thu
Nhưng than ôi, đành phải theo một lối
Tôi làm kẻ lữ hành phân vân mãi
Đưa mắt nhìn xuống lối chạy về xa
Tới khúc cong khuất sau lùm cây bụi.

Tôi lựa chọn nẻo thứ hai sau đấy
Có thể là còn hấp dẫn hơn kia
Vì cỏ mọc đầy cần bước chân đi
Mặc dù cả hai con đường nằm đấy
Có vết mòn cả đường nọ, đường kia.

Và hai con đường trong buổi sớm mai
Lá phủ đầy, chưa có bàn chân bước
Tôi dành ngả đầu tiên vào dịp khác
Dù thâm tâm vẫn biết được sau này
Quay trở lại, chắc gì còn có dịp.

Tôi sẽ kể chuyện này trong tiếng nấc
Rằng đâu đó rất nhiều năm về trước:
Hai ngả đường chia lối ở trong rừng
Tôi chọn con đường có ít bước chân
Và điều đó đã làm nên khác biệt.


The Road Not Taken 

Two roads diverged in a yellow wood,
And sorry I could not travel both
And be one traveler, long I stood
And looked down one as far as I could
To where it bent in the undergrowth;

Then took the other, as just as fair,
And having perhaps the better claim,
Because it was grassy and wanted wear;
Though as for that the passing there
Had worn them really about the same,

And both that morning equally lay
In leaves no step had trodden black.
Oh, I kept the first for another day!
Yet knowing how way leads on to way,
I doubted if I should ever come back.

I shall be telling this with a sigh
Somewhere ages and ages hence:
Two roads diverged in a wood, and I—
I took the one less traveled by,
And that has made all the difference.



BÊN RỪNG CHIỀU TUYẾT RƠI

(Stopping by woods on a snowy evening)


Rừng của ai dường như ta đã biết
Nhà của người này nằm ở ven làng
Người không thấy là ta đang dừng chân
Ngắm khu rừng của người nằm dưới tuyết.

Con ngựa của ta nghĩ rằng kỳ cục
Dừng chân ở nơi trang trại không gần
Bên là rừng, bên hồ nước đóng băng
Vào một buổi chiều đông tăm tối nhất.

Nên ngựa của ta rung chòm lục lạc
Như hỏi xem đấy có phải sai lầm
Không lời đáp, chỉ có tiếng thì thầm
Rên khe khẽ trong lời cơn gió tuyết.

Rừng tuyệt vời, rừng sâu và mờ mịt
Nhưng còn đây lời hứa giữ con đường
Còn bao nhiêu dặm trước khi lên giường
Còn bao nhiêu dặm trước khi yên giấc.


Stopping by Woods on a Snowy Evening

Whose woods these are I think I know.   
His house is in the village though;   
He will not see me stopping here   
To watch his woods fill up with snow.   

My little horse must think it queer   
To stop without a farmhouse near   
Between the woods and frozen lake   
The darkest evening of the year.   

He gives his harness bells a shake   
To ask if there is some mistake.   
The only other sound’s the sweep   
Of easy wind and downy flake.   

The woods are lovely, dark and deep,   
But I have promises to keep,   
And miles to go before I sleep,   
And miles to go before I sleep.
*****

TÌNH YÊU VÀ MỘT CÂU HỎI

(Love and a question)


Người xa lạ gõ cửa trong chiều vắng
Đấy – ngôi nhà của một đôi uyên ương.
Cây gậy của người có màu trắng và xanh
Còn trong lòng một nỗi lo đè nặng.
Người xa lạ bằng mắt nhiều hơn miệng
Hỏi chàng rể cho nghỉ lại đêm này
Đôi mắt người nhìn con đường xa xôi
Những ánh lửa khắp nơi đều tắt ngấm.

Và chàng rể liền bước ra ngoài cổng:
“Ta hãy cùng nhau ngó vào bầu trời
Có một câu hỏi cho anh và tôi
Mà bầu trời đêm hãy còn giấu kín”.
Những chiếc lá của kim ngân rụng xuống
Quả mọng kim ngân đang thẫm màu xanh
Ngọn gió mùa thu như gió mùa đông
“Người xa lạ, tôi đây mong biết lắm”.

Cô dâu một mình trong nhà im lặng
Khát khao như bếp lửa trước mặt nàng
Bếp lửa làm cho đôi má thêm hồng
Và ý nghĩ - trong tim đầy ước muốn.

Chàng rể ngó nhìn con đường xa vắng
Nhưng nghĩ suy chỉ quanh quẩn bên nàng
Mong giữ trái tim yêu trong lồng vàng
Và chốt bạc đem chốt ngoài cửa đóng.

Chàng rể nghĩ rằng hãy còn ít lắm
Chia sẻ bánh mỳ, chia sẻ hầu bao
Thành tâm cầu Chúa giúp cho người nghèo
Hay trừng phạt kẻ giàu cho đích đáng.

Và liệu có phải đấy là số phận
Khách đến mang hạnh phúc cho hai người
Hay tai họa sẽ đổ xuống đêm nay
Thì câu trả lời chàng mong biết lắm.


Love And A Question

A stranger came to the door at eve, 
And he spoke the bridegroom fair. 
He bore a green-white stick in his hand, 
And, for all burden, care. 
He asked with the eyes more than the lips 
For a shelter for the night, 
And he turned and looked at the road afar 
Without a window light. 

The bridegroom came forth into the porch 
With, 'Let us look at the sky, 
And question what of the night to be, 
Stranger, you and I.' 
The woodbine leaves littered the yard, 
The woodbine berries were blue, 
Autumn, yes, winter was in the wind; 
'Stranger, I wish I knew.' 

Within, the bride in the dusk alone 
Bent over the open fire, 
Her face rose-red with the glowing coal 
And the thought of the heart's desire. 

The bridegroom looked at the weary road, 
Yet saw but her within, 
And wished her heart in a case of gold 
And pinned with a silver pin. 

The bridegroom thought it little to give 
A dole of bread, a purse, 
A heartfelt prayer for the poor of God, 
Or for the rich a curse; 

But whether or not a man was asked 
To mar the love of two 
By harboring woe in the bridal house, 
The bridegroom wished he knew.


ĐỒNG CỎ
(The Pasture)

Tôi đi ra đồng cỏ dọn nước nguồn
Trên đồng cỏ tôi sẽ cào lá rụng
Và dòng nước sạch sẽ, tôi ngắm nhìn
Rồi tôi sẽ quay về. – Em hãy đến.

Tôi ra đi giúp cho con bê non
Đứng bên mẹ. Bê hãy còn bé lắm
Bước chân bê chao đảo, chưa vững vàng
Rồi tôi sẽ quay về. – Em hãy đến.


The Pasture

I'm going out to clean the pasture spring; 
I'll only stop to rake the leaves away 
(And wait to watch the water clear, I may): 
I sha'n't be gone long.—You come too. 

I'm going out to fetch the little calf 
That's standing by the mother. It's so young, 
It totters when she licks it with her tongue. 
I sha'n't be gone long.—You come too. 



NGỌN GIÓ VÀ BÔNG HOA TRÊN CỬA SỔ

(Wind and window flower)


Người đang yêu, xin hãy tạm quên tình
Và bạn hãy lắng nghe câu chuyện kể:
Nàng – là bông hoa trên cửa sổ
Còn chàng – cơn gió lạnh mùa đông.

Gió để ý và nhìn thấy hoa hồng
Khi mặt trời mùa đông xuất hiện
Ánh mặt trời làm tan băng trên kính.
Và chim oanh đã thức dậy trong lồng
Gió nhìn thấy bông hoa trong cửa sổ
Nhưng gió không biết được phải làm gì
Nhìn thấy hoa rồi gió đã bay đi
Để đêm khuya lại quay về nơi đó.

Bởi vì gió chỉ là cơn gió
Đã đành, cơn gió lạnh mùa đông
Chỉ biết vùi đầu trong tuyết miên man…
Không hay biết tình yêu là gì cả.

Nhưng dù sao ngọn gió cứ thấy buồn
Ngọn gió lung lay khung cửa sổ
Để cho hoa hồng không thể ngủ
Khi nơi này ngọn gió đến trong đêm.
Để biết đâu, bông hoa sẽ xiêu lòng
Rồi cùng gió biến vào đêm vắng
Về cái nơi dịu êm và tĩnh lặng
Nơi có bàn có bếp lửa và gương.

Nhưng bông hoa đã không nói không rằng
Biết lấy gì để đáp lời ngọn gió
Và trăm ngàn dặm cách xa, sau đó
Ngọn gió sang ngày gặp buổi bình minh.


Wind And Window Flower

Lovers, forget your love, 
And listen to the love of these, 
She a window flower, 
And he a winter breeze. 

When the frosty window veil 
Was melted down at noon, 
And the caged yellow bird 
Hung over her in tune, 
He marked her through the pane, 
He could not help but mark, 
And only passed her by 
To come again at dark. 

He was a winter wind, 
Concerned with ice and snow, 
Dead weeds and unmated birds, 
And little of love could know. 

But he sighed upon the sill, 
He gave the sash a shake, 
As witness all within 
Who lay that night awake. 
Per chance he half prevailed 
To win her for the flight 
From the firelit looking-glass 
And warm stove-window light. 

But the flower leaned aside 
And thought of naught to say, 
And morning found the breeze 
A hundred miles away.



LỬA VÀ BĂNG GIÁ

(Fire and ice)


Ai đấy nói rằng thế gian sẽ chìm trong lửa
Ai đấy nói rằng ngày tận thế trong băng.
Còn tôi thì tôi chỉ mong
Như người nói rằng thế gian chìm trong lửa.
Nhưng nếu phải chịu cả hai điều tai họa
Tôi nghĩ sẽ nhận thức ra được sự thù hằn
Và để phá tan băng giá vĩnh hằng
Thì cũng tốt
Không sao cả.


Fire and Ice

Some say the world will end in fire,
Some say in ice.
From what I’ve tasted of desire
I hold with those who favor fire.
But if it had to perish twice,
I think I know enough of hate
To say that for destruction ice
Is also great
And would suffice.


CƠN ĐAU TRONG MƠ
(A Dream Pang)

Đấy là hôm anh dạo trong rừng tối
Hát một bài ca để gió mang đi
Và lần ấy tình cờ em ghé lại
Nhưng chẳng bước theo, em cứ chần chừ.
(Đấy là giấc mơ) và em đứng đó
Em ngại ngùng, em không chịu bước vô
Vẻ lưỡng lự, và mái đầu lắc lư:
“Nhất định người ta phải ra đón chứ”.

Anh bên cạnh, anh đứng nhìn tất cả
Sau những cành cây ngăn cách chúng mình
Một cơn đau trong lòng êm dịu quá
Anh chẳng nói gì và chẳng gọi em.
Dù cách xa nhưng anh hiểu: em gần
Và em ở đây – chứng minh điều đó.


A Dream Pang

I had withdrawn in forest, and my song 
Was swallowed up in leaves that blew alway; 
And to the forest edge you came one day 
(This was my dream) and looked and pondered long, 
But did not enter, though the wish was strong:
You shook your pensive head as who should say, 
‘I dare not—too far in his footsteps stray— 
He must seek me would he undo the wrong. 

Not far, but near, I stood and saw it all 
Behind low boughs the trees let down outside;
And the sweet pang it cost me not to call 
And tell you that I saw does still abide. 
But ’tis not true that thus I dwelt aloof, 
For the wood wakes, and you are here for proof.


Mark Twain

Hãy nhảy như không ai nhìn bạn hết
Hãy hát như không có một ai nghe
Hãy yêu như bạn chưa đau bao giờ
Hãy sống như trên thiên đường mặt đất.
&&&
Dance like no one is watching. 
Sing like no one is listening. 
Love like you've never been hurt 
And live like it's heaven on Earth.


Mark Twain







Thơ Henry Wadsworth Longfellow



Henry Wadsworth Longfellow (27 /2 /1807 – 24 /3 /1882) – nhà thơ Mỹ, tác giả của nhiều tập thơ nổi tiếng: “Bài ca về Hiawatha”, “Bản thánh ca của cuộc đời”, “Excelsior”… Ông cũng là tác giả của bản dịch Thần khúc ra tiếng Anh hay nhất.

Tiểu sử:
Henry Wadsworth Longfellow sinh ở Portland, Maine. Năm 1825 học xong Bowdoin College được mời làm giáo sư dạy các ngôn ngữ mới. Chuẩn bị cho công việc này, ông lên đường sang châu Âu, đến các nước Pháp, Tây Ban Nha, Italia, Đức học tiếng và nghiên cứu về văn hoá, lịch sử của các nước này. Từ năm 1829-1835 dạy ở Bowdoin College. Năm 1831 cưới vợ và xuất bản tập thơ Outre-Mer (Ở nước ngoài). Năm 1835, Đại học Harvard mời ông dạy các ngôn ngữ mới và ông lại lên đường sang châu Âu du lịch. Vợ ông mất trong thời kỳ này, ông một mình trở về Mỹ năm 1836, dạy ở Đại học Harvard đến năm 1854.

Tập thơ đầu tiên Giọng của đêm (Voices of the Night, 1839) có bài thơ Bản thánh ca của cuộc đời làm cho Longfellow trở thành nhà thơ nổi tiếng trong tất cả mọi tầng lớp của xã hội. Tập thơ Những bài Ballad và những bài thơ khác (Ballads and Other Poems, 1842) có bài thơ Excelsior cũng là một bài thơ rất nổi tiếng. Năm 1843 ông cưới vợ lần thứ hai và tiếp tục sáng tác nhiều. Năm 1861 vợ thứ hai của ông lại qua đời, Longfellow rất buồn và đau khổ nhưng vẫn sáng tác đều. Ông bỏ ra nhiều năm dể dịch trọn vẹn bộ “Thần khúc” của Dante ra tiếng Anh, được dánh giá là bản dịch tốt nhất trong số rất nhiều bản dịch ra tiếng Anh. Những năm cuối đời ông bị bệnh khớp nhưng vẫn luôn thoải mái tâm hồn và vẫn làm việc nhiều. Ông mất ở Cambridge, Massachusetts năm 1882.

Henry Wadsworth Longfellow là nhà thơ rất nổi tiếng không chỉ ở Mỹ mà cả ở nước ngoài nhưng ở Việt Nam mới chỉ có một số bài thơ của Longfellow được dịch ra tiếng Việt.

Tác phẩm:
* Bản dịch từ tiếng Tây Ban Nha (Coplas de Don Jorge Manrique, 1833)
*Ở nước ngoài: Chuyến hành hương qua biển (Outre-Mer: A Pilgrimage Beyond the Sea, 1835)
*Giọng của đêm (Voices of the Night, 1839)
*Những bài Ballad và những bài thơ khác (Ballads and Other Poems, 1842)
*Sinh viên Tây Ban Nha (The Spanish Student, kịch 3 hồi, 1843)
*Các nhà thơ và thơ ca châu Âu (Poets and Poetry of Europe, bản dịch, 1844)
*Câu chuyện Acadie Evangeline (A Tale of Acadie, trường ca sử thi, 1847)
*Truyền thuyết vàng (The Golden Legend, bi kịch thơ, 1851)
*Bài ca về Hiawatha (The Song of Hiawatha, trường ca sử thi, 1855)
*Lời tỏ tình của Miles Standish (The Courtship of Miles Standish and Other Poems, 1858)
*Thần khúc của Dante (Dante's Divine Comedy, dịch, 1867)
*Những bi kịch nước Anh mới (The New England Tragedies, 1868)
*Ba quyển sách bài ca (Three Books of Song, 1872)
******


Một số bài thơ:
**********
MEZZO CAMMIN

Đến nửa đường đời, tôi để mất dấu vết
Của tháng ngày qua. Xúc cảm ở đâu rồi
Đâu khát khao thời tuổi trẻ, để xây
Một lâu đài của bài ca cao vút.

Đâu phải biếng lười và phải đâu hạnh phúc
Đâu mê say, yêu tha thiết nồng nàn
Nhưng nỗi buồn có lẽ tự lúc sinh
Là lo lắng, là tai ương, chết chóc.

Từ nửa đường lên đồi, tôi nhìn thấy
Quá khứ dưới chân, tất cả tối mù
Và thành phố mịt mờ trong lửa khói

Chỉ tiếng kêu than, niềm vui chẳng thấy
Nghe trên đầu tôi, trong ngọn gió thu
Dòng thác Chết ầm ầm trên cao ấy*.
_____________
*Đây là bài Sonnet tự thuật viết năm 1842, khi nhà thơ tròn 35 tuổi – một nửa đường đời theo Dante. Tên gọi của bài thơ trích từ dòng thơ đầu của “Thần khúc”: “Nel mezzo del cammin di nostra vita…”(Con đường đời tôi đã đi đến nửa… - bản dịch của Hồ Thượng Tuy). Mezzo cammin – nửa đường, nghĩa là nửa đường đời.


Mezzo cammin

Half of my life is gone, and I have let
The years slip from me and have not fulfilled
The aspiration of my youth, to build
Some tower of song with lofty parapet.

Not indolence, nor pleasure, nor the fret
Of restless passions chat would not be stilled,
But sorrow, and a care that almost killed,
Kept me from what I may accomplish yet;

Though, half way up the hill, I see the Past
Lying beneath me with its sounds and sights,--
A city in the twilight dim and vast,

With smoking roofs, soft bells, and gleaming lights.--
And hear above me on the autumnal blast
The cataract of Death far thundering from the heights.
   

CAO HƠN

(Excelsior!)


Trên con đường bóng đêm và băng giá
Một chàng trai đi lên núi An-pơ
Mặc tuyết rơi, trong tay một lá cờ
Với dòng chữ đề vô cùng xa lạ:
Cao hơn!

Vầng trán mang nét buồn vì suy nghĩ
Nhưng ánh mắt sắc như một lưỡi gươm
Và nghe như tiếng kèn bạc vang lên
Một ngôn ngữ không ai hay biết cả:
Cao hơn!

Những ánh đèn trong những nhà hạnh phúc
Bếp lửa gia đình ấm áp gọi mời
Nhưng bóng ma và băng giá ngoài trời
Bờ môi chàng như thì thào: cứ mặc
Cao hơn!

Một ông già bảo chàng: “Không đi được!
Nơi ấy bóng đêm, tuyết lở, sông băng
Chảy cuồn cuộn và rộng lớn mênh mông!”
Nhưng lại vẫn câu trả lời dứt khoát:
Cao hơn!

Cô gái gọi: “Em xin chàng dừng bước
Hãy áp mái đầu trên ngực của em!”
Trong đôi mắt chàng ánh sáng màu xanh
Nhưng câu đáp lại như lời thổn thức:
Cao hơn!

“Hãy coi chừng những cành thông khô đấy!
Và sông băng, tuyết lở hãy coi chừng!”
Một người nông dân kêu lên với chàng
Nhưng giọng trả lời từ trên cao ấy:
Cao hơn!

Ở đèo Sait-Bernard chàng gặp nạn
Khi đi lên cao, vào buổi cầu kinh
Những lời cầu nguyện dường như lặng ngừng
Một giọng nói giữa không trung vang vọng:
Cao hơn!

Xác kẻ du hành vùi trong tuyết phủ
Chỉ chó tìm ra sau một thời gian
Vẫn lá cờ nguyên vẹn trong tay chàng
Với dòng chữ đề vô cùng xa lạ:
Cao hơn!

Giờ ở đó, giữa lạnh lùng màu xám
Chàng yên giấc với vẻ đẹp tuyệt vời
Từ bầu trời sáng sủa và xa xôi
Một giọng nói như ngôi sao rụng xuống:
Cao hơn!
_________
*Bài thơ này lần đầu in trong tập “Ballads and Other Poems” năm 1842 nổi tiếng như một lời tuyên ngôn vì những lý tưởng cao cả. Sau đó, bài thơ này trở thành đối tượng của vô vàn những bài thơ phóng tác và nhại theo nó.
Excelsior! (tiếng Latinh) – Cao hơn! (Cao hơn nữa!). Trên biểu tượng của bang New York có dòng chữ này.


Excelsior

The shades of night were falling fast,
As through an Alpine village passed
A youth, who bore, 'mid snow and ice,
A banner with the strange device,
Excelsior!

His brow was sad; his eye beneath,
Flashed like a falchion from its sheath,
And like a silver clarion rung
The accents of that unknown tongue,
Excelsior!

In happy homes he saw the light
Of household fires gleam warm and bright;
Above, the spectral glaciers shone,
And from his lips escaped a groan,
Excelsior!

"Try not the Pass!" the old man said:
"Dark lowers the tempest overhead,
The roaring torrent is deep and wide!
And loud that clarion voice replied,
Excelsior!

"Oh stay," the maiden said, "and rest
Thy weary head upon this breast!"
A tear stood in his bright blue eye,
But still he answered, with a sigh,
Excelsior!

"Beware the pine-tree's withered branch!
Beware the awful avalanche!"
This was the peasant's last Good-night,
A voice replied, far up the height,
Excelsior!

At break of day, as heavenward
The pious monks of Saint Bernard
Uttered the oft-repeated prayer,
A voice cried through the startled air,
Excelsior!

A traveller, by the faithful hound,
Half-buried in the snow was found,
Still grasping in his hand of ice
That banner with the strange device,
Excelsior!

There in the twilight cold and gray,
Lifeless, but beautiful, he lay,
And from the sky, serene and far,
A voice fell, like a falling star,
Excelsior!



BẢN THÁNH CA CỦA CUỘC ĐỜI

(A Psalm Of Life)


Xin đừng nói bằng một giọng u buồn
Rằng cuộc đời là một giấc mơ suông!
Linh hồn chết là linh hồn thiu ngủ
Nghĩa sâu xa của đời sống còn không.

Đời là thực! Đời là một chiến công
Thân mất đi nhưng linh hồn còn mãi
“Thân cát bụi lại trở về cát bụi”
Lời trên đây không phải nói về hồn.

Không buồn khổ và cũng không hưởng lạc
Mà mục tiêu ta sống ở đời này
Vì ngày mai đẹp hơn ngày hôm nay
Cuộc đời giục ta đi về phía trước.

Nghệ thuật dài lâu, thời gian có ít
Đừng để mất trong đó một điều gì
Hãy nhớ rằng tiếng kèn của đám ma
Là tiếng tim ta liên hồi đang đập.

Trong cuộc sống nhiều chông gai thử thách
Và cuộc đời riêng ngắn ngủi, tầm thường
Chớ làm một kẻ nô lệ đáng thương
Mà anh hùng, thử thách qua trận mạc.

Đừng than khóc điều gì trong quá khứ
Hay ước ao gì đó ở tương lai
Mà hãy hành động vì ngày hôm nay
Tin sức mình, và chỉ tin ở Chúa.

Những chiến công của bao người vĩ đại
Thúc giục ta đi tiếp một con đường
Mà rồi đây trên cát của thời gian
Dấu chân mình, biết đâu, ta để lại.

Dấu chân ấy một ngày mai có thể
Giúp được những người lầm lạc đau thương
Nhìn thấy giấu chân họ sẽ vững lòng
Và khơi dậy niềm phấn khích trong họ.

Vậy thì chúng ta đứng lên hành động
Hãy tận tâm với công việc hết mình
Biết học hỏi trong lao động quang vinh
Và đợi chờ một ngày vui sẽ đến.


A psalm of life

Tell me not, in mournful numbers,
Life is but an empty dream! —
For the soul is dead that slumbers,
And things are not what they seem.

Life is real! Life is earnest!
And the grave is not its goal;
Dust thou art, to dust returnest,
Was not spoken of the soul.

Not enjoyment, and not sorrow,
Is our destined end or way;
But to act, that each to-morrow
Find us farther than to-day.

Art is long, and Time is fleeting,
And our hearts, though stout and brave,
Still, like muffled drums, are beating
Funeral marches to the grave.

In the world’s broad field of battle,
In the bivouac of Life,
Be not like dumb, driven cattle!
Be a hero in the strife!

Trust no Future, howe’er pleasant!
Let the dead Past bury its dead!
Act,— act in the living Present!
Heart within, and God o’erhead!

Lives of great men all remind us
We can make our lives sublime,
And, departing, leave behind us
Footprints on the sands of time;

Footprints, that perhaps another,
Sailing o’er life’s solemn main,
A forlorn and shipwrecked brother,
Seeing, shall take heart again.

Let us, then, be up and doing,
With a heart for any fate;
Still achieving, still pursuing,
Learn to labor and to wait.




MŨI TÊN VÀ BÀI CA

(The Arrow And The Song)


Tôi phóng lên trời một mũi tên
Mũi tên rơi nơi nào không biết được
Thật uổng phí ánh mắt tôi dõi nhìn
Lao vút nhanh rồi mũi tên mất hút.

Và tôi thả bài ca vào trời xanh
Không biết được lời bay đi đâu đó
Có ai thấy, có ai biết được rằng
ở nơi nào bài ca trong ngọn gió.

Mãi sau đó rất lâu, trên cây sồi
Tôi tìm thấy mũi tên còn nguyên vẹn
Và bài ca vẫn đầy đủ những lời
Tôi tìm thấy trong con tim người bạn.


The arrow and the song

I shot an arrow into the air,
It fell to earth, I knew not where;
For, so swiftly it flew, the sight
Could not follow it in its flight.

I breathed a song into the air,
It fell to earth, I knew not where;
For who has sight so keen and strong,
That it can follow the flight of song?

Long, long afterward, in an oak
I found the arrow, still unbroke;
And the song, from beginning to end,
I found again in the heart of a friend.