© Nguyễn Viết Thắng giới thiệu, dịch và chú giải. Không đăng lại trên những trang Web với mục đích thương mại.

Thứ Ba, 14 tháng 2, 2017

Thơ Edgar Allan Poe


Edgar Allan Poe (19 tháng 1 năm 1809 – 7 tháng 10 năm 1849) là nhà văn, nhà viết kịch, nhà phê bình, nhà thơ Mỹ. Edgar Poe là ông tổ của thể loại truyện trinh thám và hình sự, ông có sự ảnh hưởng đến Charles Pierre Baudelaire, Fyodor Mikhaylovich Dostoyevsky, Sir Arthur Conan Doyle…

Tiểu sử:
Edgar Poe sinh ở Boston, là con thứ hai của David Poe và Elizabeth Arnold Hopkins Poe. Bố mẹ mất sớm, Poe được John Allan nhận làm con nuôi. Từ đó Allan trở thành họ thứ hai của Edgar. Những năm 1815 – 1820 Edgar Poe cùng gia đình Allan đi sang Anh, Poe học ở trường Richmond. Năm 1826 vào học Đại học Virginia nhưng chỉ học được một học kỳ thì bỏ. Năm 1827 Poe trở về Boston in cuốn Tamerlane and Other Poems, cũng trong năm này Poe gia nhập quân đội và 2 năm sau đấy, khi mẹ nuôi mất, Poe xin ra quân. Năm 1829 in tập sách thứ hai: Al Aaraaf, Tamerlane, and Minor Poems.

Năm 1830 vào học trường quân đội nhưng cũng chỉ được một năm lại bỏ học. Trở về New York, Poe in cuốn Poems. Năm 1833 in truyện MS Found in a Bottle được tặng giải thưởng của một tạp chí ở Bantimore. Năm 1836 Poe cưới vợ, là một cô gái mới 14 tuổi. Những năm từ 1836-1842 Poe làm biên tập của nhiều tạp chí. Năm 1845 in bài thơ Raven (Con quạ), là tác phẩm nổi tiếng nhất của Edgar Poe.
 Năm 1847, vợ chết, Poe bị ốm nặng, cả năm hầu như không sáng tác nhưng 2 năm sau đó ông viết được nhiều bài thơ nổi tiếng như: The Bells, For Annie, Annabel Lee, Eldorado… Năm 1849 ông sống với một người phụ nữ mà ngày xưa hai người từng yêu nhau. Thời gian sau đấy không có tư liệu về tiểu sử của Poe. Ngày 3 tháng 10 năm 1849 người ta tìm thấy ông trong một quán rượu ở Bantimore. Ông mất ngày 7 tháng 10 năm năm 1849.

Tác phẩm:
Tác phẩm của Edgar Allan Poe được dịch ra tất cả các ngôn ngữ chủ yếu của thế giới. Những bản dịch của Charles Pierre Baudelaire, Stéphane Mallarmé ra tiếng Pháp tác phẩm của Poe trở thành những bản dịch nổi tiếng thế giới, có ảnh hưởng đến nhiều nhà văn, nhà thơ lớn khắp thế giới. Tuy nhiên, Edgar Allan Poe bằng tiếng Việt hầu như chưa có gì, ngoài một số bài thơ. Dưới đây là phần nói về những bài thơ đã được dịch sang tiếng Việt.

Bài thơ Eldorado lần đầu tiên in ở tạp chí Flag of Our Union tháng 4 năm 1849. Tiếng Tây Ban Nha “El Dorado” có nghĩa là “dát vàng”. Nguồn gốc của từ này xuất phát từ một tục lệ của một bộ tộc người da đỏ khi nhà vua mới lên ngôi họ đem cát vàng rắc lên người nhà vua. Từ đó sinh ra truyền thuyết về “người dát vàng “El Dorado” mà những nhà thám hiểm Tây Ban Nha từng gặp đâu đó ở Nam Mỹ. Trên thực tế nó được bắt nguồn từ những lời kể của nhà thám hiểm người Tây Ban Nha, Francisco de Orellana về một vùng đất nằm giữa sông Amazon và hồ Parima ở Guiana (Nam Mỹ). Một người Tây Ban Nha khác có tên là Martinez còn kể khắp châu Âu rằng ông ta từng sống 7 tháng ở thủ đô Manoa của vương quốc Eldorado này và mô tả tỉ mỉ về cung điện của nhà vua bằng vàng ròng, còn nhà vua cứ buổi sáng rửa hết vàng, buổi tối trước khi đi ngủ lại dát vàng lên người. Truyền thuyết này sau đó trở thành đề tài cho tin đồn về một xứ sở có rất nhiều vàng mà những người dân ở đó đem vàng dát lên người. Sau đấy, có rất nhiều đoàn thám hiểm (không chỉ của người Tây Ban Nha mà còn của người Anh) đi tìm vùng đất này. Cuộc thám hiểm quan trọng nhất do nhà thám hiểm người Anh Walter Raleigh thực hiện vào đầu thế kỷ XVII. Suốt gần 300 người ta đi tìm Eldorado mà không thấy, nhưng những cuộc tìm kiếm này đã đem lại nhiều kết quả khoa học về địa lý học và dân tộc học rất quan trọng. Tháng 1 năm 1848 người ta tìm thấy vàng ở California thì người đời cho đấy là “El Dorado”. Bài thơ này của Edgar Allan Poe viết trong những ngày tháng được gọi là “Cơn sốt vàng” (California Gold Rush) đó, nhưng đề tài Eldorado tác giả hoàn toàn viết theo cách của mình.

Chàng hiệp sĩ suốt cả cuộc đời đi tìm miền đất xa lạ, mà có thể là không tồn tại trên đời, tất nhiên, không giống như những kẻ khát khao đi tìm vàng. Thành ra, bài thơ này viết về con người đi tìm cái tuyệt đối. Khổ thơ cuối, qua lời của chiếc bóng phiêu du, nói rằng “Eldorado” thật, không có ở cõi đời này mà ở bên kia thế giới.

Bài thơ Annabel Lee lần đầu in ở báo New York Tribune ngày 9 tháng 10 năm 1849, hai ngày sau khi nhà thơ qua đời. Nhiều nhà thư mục khẳng định đây là bài thơ tác giả viết về người vợ của mình chết khi hãy còn rất trẻ. Tuy vậy, từ năm 1846, nghĩa là trước cái chết của vợ ông, Edgar Allan Poe đã viết trong tác phẩm Triết học của sáng tạo (The Philosophy of Composition) rằng: “…Cái chết của người phụ nữ đẹp, ngoài mọi điều nghi ngờ, là đối tượng của thi ca và cũng không hề nghi ngờ rằng, với đối tượng này thích hợp hơn hết là bờ môi của người tình đang đau khổ”. Đây cũng là đề tài trong những bài thơ nổi tiếng khác của ông như Raven, Ulalume.
 **
Tác phẩm:
Tamerlane và những bài thơ khác (Tamerlane and Other Poems, 1827), thơ
Thơ (Poems, 1831), thơ
Gửi Helen (To Helen), 1831, thơ
Con quạ (The Raven, 1845),thơ
Thành phố ở biển (The City in the Sea, 1845,
Chuông (The Bells, 1849), thơ
Annabel Lee (Annabel Lee, 1849), thơ
Eldorado (Eldorado, 1849),  thơ
Bản thảo tìm thấy trong chai (MS Found in a Bottle, 1833), truyện
Truyện về Arthur Gordon Pym (The Narrative of Arthur Gordon Pym, 1838), truyện
Vụ giết người ở phố Morgue (The Murders in the Rue Morgue, 1841),  truyện
Nhà của Usher sụp đổ (The Fall of the House of Usher, 1839),  truyện
Bức thư bị đánh cắp (The Purloined Letter, 1845), truyện
Mặt nạ của cái chết đỏ (The Masque of the Red Death, 1843), truyện
Mèo đen (The Black Cat, 1843), truyện
Triết học của sáng tạo (Philosophy of Composition, 1846), tiểu luận 

Một số bài thơ:


ELDORADO

Xưa có chàng hiệp sĩ
Trẻ trung và vui vẻ
Ngày sáng hay đêm mờ
Luôn đi về phía trước
Chàng hát vang câu hát
Chàng đi tìm Eldorado.

Nhưng thời gian thấm thoắt
Đến lúc già, bạc tóc
Con tim chàng mơ hồ
Mà chàng trai không thể
Tìm đâu ra xứ sở
Giống như là Eldorado.

Rồi một hôm, chàng bỗng
Gặp trên đường chiếc bóng
Một chiếc bóng phiêu du
“Này bóng – chàng gặng hỏi –
Ở đâu miền đất ấy
Có tên là Eldorado?”

“Sau Núi Trăng chót vót –
Chiếc bóng kia liền đáp –
Qua chín núi bảy hồ
Rồi đi qua Thung lũng
Qua vương quốc của Bóng
Nếu muốn tìm Eldorado!”


Eldorado

Gaily bedight, 
   A gallant knight, 
In sunshine and in shadow,   
   Had journeyed long,   
   Singing a song, 
In search of Eldorado. 

   But he grew old— 
   This knight so bold—   
And o’er his heart a shadow—   
   Fell as he found 
   No spot of ground 
That looked like Eldorado. 

   And, as his strength   
   Failed him at length, 
He met a pilgrim shadow—   
   ‘Shadow,’ said he,   
   ‘Where can it be— 
This land of Eldorado?’ 

   ‘Over the Mountains 
   Of the Moon, 
Down the Valley of the Shadow,   
   Ride, boldly ride,’ 
   The shade replied,— 
‘If you seek for Eldorado!’ 
******

ANNABEL LEE

Chuyện xảy ra đã nhiều năm về trước
Ở vương quốc bên biển, sóng rầm rì
Một cô gái, hẳn mọi người dã biết
Nàng có tên là Annabel Lee
Nàng đã sống với một điều ao ước
Yêu người và được yêu lại nhường kia.

Nàng con trẻ, tôi cũng là con trẻ
Ở vương quốc bên biển, sóng rầm rì
Chưa từng có ai yêu nhau như thế
Như tôi và nàng Annabel Lee
Yêu đến mức để thiên thần ghen tỵ
Dù thiên thần vẫn ở chốn xanh kia.

Chính vì thế mà đã từ lâu lắm
Ở vương quốc bên biển, sóng rầm rì
Cơn gió lạnh từ mây đen ập xuống
Đã giết chết nàng Annabel Lee
Anh em, họ hàng cao sang đổ đến
Những người thân đã mang xác nàng đi
Rồi họ đã chôn nàng trong mồ lạnh
Ở vương quốc bên biển, sóng rầm rì.

Niềm hạnh phúc, dù mới là một nửa
Mà thiên thần đã ganh tỵ nhường kia
Chính vì thế (mọi người hay biết cả
Ở vương quốc bên biển, sóng rầm rì)
Cơn gió lạnh từ đám mây đen đúa
Đã giết chết nàng Annabel Lee.

Nhưng tình yêu chúng tôi càng mạnh mẽ
Hơn những ai sống hạnh phúc đến già
Và những ai khôn khéo đã chắc gì –
Dù cả thiên thần ngự trên cao ấy
Hay quỉ ma dưới sóng biển rầm rì
Cũng không ngăn cách nổi hồn tôi với
Linh hồn của nàng Annabel Lee.

Ánh trăng sáng gợi ra nhiều giấc mộng
Tôi mơ về nàng Annabel Lee
Nhìn những ngôi sao thấy đôi mắt sáng
Đẹp tuyệt vời của Annabel Lee
Cứ hằng đêm, hằng đêm tôi lại đến
Với người vợ hiền, người yêu, người bạn
Năm trong nấm mồ bên chốn biển xa
Đang ngủ yên trong sóng biển rầm rì.


Annabel Lee

It was many and many a year ago, 
   In a kingdom by the sea, 
That a maiden there lived whom you may know 
   By the name of Annabel Lee; 
And this maiden she lived with no other thought 
   Than to love and be loved by me. 

I was a child and she was a child, 
   In this kingdom by the sea, 
But we loved with a love that was more than love— 
   I and my Annabel Lee— 
With a love that the wingèd seraphs of Heaven 
   Coveted her and me. 

And this was the reason that, long ago, 
   In this kingdom by the sea, 
A wind blew out of a cloud, chilling 
   My beautiful Annabel Lee; 
So that her highborn kinsmen came 
   And bore her away from me, 
To shut her up in a sepulchre 
   In this kingdom by the sea. 

The angels, not half so happy in Heaven, 
   Went envying her and me— 
Yes!—that was the reason (as all men know, 
   In this kingdom by the sea) 
That the wind came out of the cloud by night, 
   Chilling and killing my Annabel Lee. 

But our love it was stronger by far than the love 
   Of those who were older than we— 
   Of many far wiser than we— 
And neither the angels in Heaven above 
   Nor the demons down under the sea 
Can ever dissever my soul from the soul 
   Of the beautiful Annabel Lee; 

For the moon never beams, without bringing me dreams 
   Of the beautiful Annabel Lee; 
And the stars never rise, but I feel the bright eyes 
   Of the beautiful Annabel Lee; 
And so, all the night-tide, I lie down by the side 
   Of my darling—my darling—my life and my bride, 
   In her sepulchre there by the sea— 
   In her tomb by the sounding sea.


BÀI CA
(Song)

Anh thấy em trong ngày cưới của mình
Có điều gì đã làm em đỏ mặt
Dù xung quanh em là niềm hạnh phúc
Và tình yêu luôn đứng trước mặt em.

Cái tia sáng cháy lên trong mắt em
(Dù nó thể hiện điều gì đi nữa)
Thì với đôi mắt anh, từ ngày đó
Không còn thứ ánh sáng nào hơn.

Điều xấu hổ từng làm em đỏ mặt
Là của thời con gái sẽ đi qua
Nhưng cái ngọn lửa đã dùng thiêu đốt
Còn cháy lên trong ngực của người ta.

Ai thấy em trong ngày cưới của mình
Thấy điều gì từng làm em đỏ mặt
Dù xung quanh em là niềm hạnh phúc
Và tình yêu luôn đứng trước mặt em.

Song 

I saw thee on thy bridal day-
When a burning blush came o'er thee,
Though happiness around thee lay,
The world all love before thee:

And in thine eye a kindling light
(Whatever it might be)
Was all on Earth my aching sight
Of Loveliness could see.

That blush, perhaps, was maiden shame-
As such it well may pass-
Though its glow hath raised a fiercer flame
In the breast of him, alas!

Who saw thee on that bridal day,
When that deep blush would come o'er thee,
Though happiness around thee lay;
The world all love before thee. 


TỤNG CA
(Hymn)

Buổi bình minh – chính ngọ – buổi hoàng hôn
Mẹ Maria! Mẹ có nghe lời con
Trong vui, buồn hay khi tốt, xấu
Mẹ Maria, Mẹ hãy ở bên con!

Khi những giờ khắc bay như lửa cháy
Không một đám mây che giữa bầu trời
Thì linh hồn con tìm đến bên người
Tìm đến người để mong niềm cứu rỗi.

Giờ bão giông của số kiếp ba đào
Cả quá khứ, hiện tại đều tăm tối
Con xin ánh sáng cho ngày sắp tới
Và xin cho con hy vọng ngọt ngào.

Hymn

At morn- at noon- at twilight dim-
Maria! thou hast heard my hymn!
In joy and woe- in good and ill-
Mother of God, be with me still!

When the hours flew brightly by,
And not a cloud obscured the sky,
My soul, lest it should truant be,
Thy grace did guide to thine and thee;

Now, when storms of Fate o'ercast
Darkly my Present and my Past,
Let my Future radiant shine
With sweet hopes of thee and thine.


GỬI HELEN
(To Helen)

Hỡi Helen, vẻ đẹp của em đối với anh
Cũng giống như con thuyền Nicea ngày cũ
Đưa những kẻ lang thang và mệt lử
Lướt nhẹ nhàng trên biển tỏa mùi hương
Tìm về chốn cũ.

Nơi biển dữ anh chỉ mong về nhà
Ánh mắt Naiad và gương mặt cổ xưa
Của em đã giúp cho anh nhận thức
Niềm vinh quang có tên là Hy Lạp
Sự hùng vĩ có tên gọi Rôma.

Anh vẫn nhìn thấy em từ xa xăm
Bên cửa sổ như em đứng như bức tượng
Và em cầm trong tay một ngọn đèn
Ôi, Tâm hồn, quê hương em đã từng
Gọi là miền đất Thánh!

To Helen

Helen, thy beauty is to me 
   Like those Nicéan barks of yore, 
That gently, o'er a perfumed sea, 
   The weary, way-worn wanderer bore 
   To his own native shore. 

On desperate seas long wont to roam, 
   Thy hyacinth hair, thy classic face, 
Thy Naiad airs have brought me home 
   To the glory that was Greece,       
   And the grandeur that was Rome. 

Lo! in yon brilliant window-niche 
   How statue-like I see thee stand, 
The agate lamp within thy hand! 
   Ah, Psyche, from the regions which 
   Are Holy-Land! 


GIẤC MƠ TRONG MỘT GIẤC MƠ
(A Dream Within A Dream)

Hãy để anh hôn em lên trán
Và cho phép anh từ giã bây giờ
Có một điều mà anh muốn nói ra
Bởi vì quả thực là em rất đúng
Cuộc đời anh như trong một giấc mơ!
Hy vọng đã từng là một giấc mơ
Dù là ngày hay đêm, khi nó đến
Dù nhìn ra hay là chẳng nhìn ra
Có phải chỉ là một cơn mê sảng?
Những gì anh nhìn và anh cảm nhận
Chỉ là giấc mơ trong một giấc mơ.

Bây giờ anh đang đứng trên bờ
Trước mặt anh biết bao con sóng
Và anh đang giữ trong tay này
Một nhúm nhỏ cát vàng tươi óng
Dường như chúng tìm cách chui xuống
Qua những ngón tay của anh đây
Để anh khóc, dòng nước mắt trào ra
Ôi lạy Chúa! Anh làm sao giữ chúng
Anh biết làm sao giữ được bây giờ
Ôi lạy Chúa! Dù chút nhỏ nhoi kia
Trước vẻ dữ dằn của bao con sóng
Hay là những gì mà anh cảm nhận
Chỉ là giấc mơ trong một giấc mơ.

A Dream Within A Dream

Take this kiss upon the brow!
And, in parting from you now,
Thus much let me avow —
You are not wrong, who deem
That my days have been a dream;
Yet if hope has flown away
In a night, or in a day,
In a vision, or in none,
Is it therefore the less gone?  
All that we see or seem
Is but a dream within a dream.

I stand amid the roar
Of a surf-tormented shore,
And I hold within my hand
Grains of the golden sand —
How few! yet how they creep
Through my fingers to the deep,
While I weep — while I weep!
O God! Can I not grasp 
Them with a tighter clasp?
O God! can I not save
One from the pitiless wave?
Is all that we see or seem
But a dream within a dream?


GỬI MẸ CỦA CON
(To My Mother)

Bởi vì con cảm thấy ở thiên đàng
Các thiên thần ghé tai nhau thầm thĩ
Trong khi cháy lên bằng ngọn lửa tình
Không có lời nào dịu dàng hơn lời “Mẹ”.

Và con gọi mẹ bằng lời như thế
Mẹ nhiều hơn lời “mẹ” đối với con
Mẹ đi vào lòng con từ ngày đó
Khi Virginia về chốn vĩnh hằng.

Mẹ ruột con, người ra đi sớm vậy
Cho con cuộc đời, còn mẹ đã ban
Đời cho kẻ mà con yêu nhường ấy.

Chính vì thế mà con quí mẹ hơn
Bởi người vợ con ở nơi vô tận
Quí linh hồn hơn cuộc sống của mình.
____________
*Bài thơ này về Maria Clemm – dì và là mẹ vợ của Edgar Allan Poe.

To My Mother

Because I feel that, in the Heavens above,
The angels, whispering to one another,
Can find, among their burning terms of love,
None so devotional as that of “Mother,”

Therefore by that dear name I long have called you—
You who are more than mother unto me,
And fill my heart of hearts, where Death installed you
In setting my Virginia's spirit free.

My mother—my own mother, who died early,
Was but the mother of myself; but you
Are mother to the one I loved so dearly,

And thus are dearer than the mother I knew
By that infinity with which my wife
Was dearer to my soul than its soul-life.


GIẤC MƠ
(A Dream)

Qua cái nhìn của bóng đêm tăm tối
Tôi đã mơ về không ít niềm vui
Nhưng giấc mơ giữa ban ngày sáng chói
Lại mang cho tôi nhiều nỗi ngậm ngùi.

Chẳng phải đấy là giấc mơ ban ngày
Mà ánh mắt bám vào hay sao chứ
Và những thứ xung quanh nó lúc này
Đều hướng về những ngày trong quá khứ.

Ôi giấc mơ thần thánh và thiêng liêng
Lúc này đây thế gian đầy tranh cãi
Ta đi trên đời có ngươi dẫn lối
Hồn cô đơn nhờ tia sáng diệu huyền.

Ánh sáng này qua bão tố, đêm đen
Và run lên ở từ nơi xa thẳm
Liệu Sự thật có điều gì soi sáng
Hơn ngôi sao có ánh sáng ngày thường?

A Dream

In visions of the dark night 
I have dreamed of joy departed— 
But a waking dream of life and light 
Hath left me broken-hearted. 

Ah! what is not a dream by day 
To him whose eyes are cast 
On things around him with a ray 
Turned back upon the past? 

That holy dream—that holy dream, 
While all the world were chiding, 
Hath cheered me as a lovely beam 
A lonely spirit guiding. 

What though that light, thro' storm and night, 
So trembled from afar— 
What could there be more purely bright 
In Truth's day-star? 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét