© Nguyễn Viết Thắng giới thiệu, dịch và chú giải. Không đăng lại trên những trang Web với mục đích thương mại.

Thứ Năm, 16 tháng 2, 2017

Thơ Langston Hughes


Langston Hughes (1 tháng 2 năm 1902 – 22 tháng 5 năm 1967) – nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch Mỹ.

Tiểu sử:
Langston Hughes sinh ở Joplin, bang Missouri. Là con trai của Carrie Langston Hughes và James Nathaniel Hughes. Sau khi học xong bậc trung học Langston Hughes làm giáo viên dạy tiếng Anh ở Mexico. Một thời gian sống ở châu Âu. Năm 1924 nhà thơ Vachel Lindsay phát hiện ra nhà thơ tương lai Langston Hughes, động viên và giúp Hughes in tập thơ đầu tiên Những khúc Blue buồn (Weary Blues, 1926). Khi đã bắt đầu nổi tiếng Hughes mới vào học Đại học Lincoln và tốt nghiệp năm 1929. Năm 1943 nhận bằng tiến sĩ Văn chương của Đại học Lincoln, năm 1963 nhận bằng tiến sĩ Văn chương thứ hai của Đại học Howard. Năm 1932 đi sang Liên Xô, sau đó sang Trung Quốc, Nhật Bản. Năm 1937 sang Tây Ban Nha và trở về Mỹ.

Langston Hughes là tác giả của 16 tập thơ, nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch và truyện viết cho thiếu nhi. Đáng kể nhất có thể kể đến các tập thơ: Shakespeare ở Harlem (Shakespeare in Harlem, 1942), Vé một chiều (One Way Ticket, 1949), Dựng lại giấc mơ bị hoãn (Montage of a Dream Deferred, 1951), Con báo và cái roi (The Panther and the Lash, 1967); các vở kịch: Người da ngăm (Mulatto, 1935), Giáng sinh đen (Black Nativity, 1961); các tập truyện: Cười để khỏi khóc (Laughing to Keep From Crying, 1952), Biển lớn (The Big Sea, 1940); tiểu thuyết: Cười qua nước mắt (Not Without Laughter, 1930)… Một đặc điểm của thơ Langston Hughes là sự kết hợp nhiều thể loại và sử dụng những bài hát dân gian của người da đen.

Tác phẩm:
- Shakespeare ở Harlem (Shakespeare in Harlem, 1942)
- Vé một chiều (One Way Ticket, 1949)
- Dựng lại giấc mơ bị hoãn (Montage of a Dream Deferred, 1951)
- Con báo và cái roi (The Panther and the Lash, 1967)
- Người da ngăm (Mulatto, 1935),
- Giáng sinh đen (Black Nativity, 1961);
- Cười để khỏi khóc (Laughing to Keep From Crying, 1952)
- Biển lớn (The Big Sea, 1940)
- Tôi thơ thẩn và tôi ngạc nhiên (I Wonder as I Wander, 1956)
- Cười qua nước mắt (Not Without Laughter, 1930)


     Một số bài thơ

ĐỜI VẪN ĐẸP SAO

(Life Is Fine)


Anh đi ra bờ sông
Ngồi lên mỏm đá.
Không cần nghĩ suy gì cả
Anh nhảy xuống sông.

Anh lặn xuống nhiều lần
Cứ ngỡ là anh chìm nghỉm!
Giá mà dòng nước ấm
Và cạn hơn – lòng sông.

Nhưng dòng nước
Chảy trên sông
Lạnh vô cùng!


Thang máy anh bước vào
Mười sáu tầng nhà cao
Anh nhớ em, và nghĩ:
Sẽ không nhảy xuống đâu!

Một nỗi buồn vơi đầy
Anh muốn kêu lên ầm ĩ
Giá mà không cao như thế
Thì anh nhảy xuống chết ngay!

Nhưng mà cao
Nhà cao lắm!
Thật là cao!


Giờ anh vẫn sống mà em
Và anh vẫn còn sống nữa.
Có để làm gì cơ chứ
Sinh ra rồi chết vì tình.

Em có nghe tiếng anh kêu
Và có thấy anh đang khóc
Nhưng mà anh không muốn chết
Anh không muốn chết, em yêu!

Đời vẫn đẹp sao!
Ngọt ngào như rượu!
Đời vẫn đẹp sao!


Life is fine

I went down to the river,
I set down on the bank.
I tried to think but couldn't,
So I jumped in and sank.

I came up once and hollered!
I came up twice and cried!
If that water hadn't a-been so cold
I might've sunk and died.

But it was
Cold in that water!
It was cold!

I took the elevator
Sixteen floors above the ground.
I thought about my baby
And thought I would jump down.

I stood there and I hollered!
I stood there and I cried!
If it hadn't a-been so high
I might've jumped and died.

But it was
High up there!
It was high!

So since I'm still here livin',
I guess I will live on.
I could've died for love--
But for livin' I was born

Though you may hear me holler,
And you may see me cry--
I'll be dogged, sweet baby,
If you gonna see me die.

Life is fine!
Fine as wine!
Life is fine!


NHỮNG ỐNG NHỔ BẰNG ĐỒNG

(Brass Spittoons)


Rửa những ống nhổ, này chàng trai!
Detroit,
Chicago,
Atlantic City,
Palm Beach.
Rửa những ống nhổ đờm
Ống khói bếp trong khách sạn
Chùi khói thuốc ở ngoài tiền sảnh
Đổ những ống nhổ đờm
Đấy là cuộc đời của con.
Này, chàng trai!
Năm xu
Một hào
Một đô
Hai đô một ngày.
Này, chàng trai!
Năm xu
Một hào
Một đô
Hai đô
Để mua giày cho bé
Để trả tiền thuê nhà
Để chủ nhật đi nhà thờ
Ôi lạy chúa!
Nhà thờ và con trẻ
Chủ nhật và phụ nữ
Pha trộn đồng năm xu
Đồng đô và lau chùi ống nhổ
Và trả tiền thuê nhà
Này, chàng trai!
Cái bát đồng tau sáng ngời dâng cho Chúa.
Bát đòng sáng loáng như cái chũm chọe
Của các cô vũ nữ vua David ngày xưa
Như chén vàng của vua Solomon ngày trước.
Này, chàng trai!
Ống nhổ sạch đặt lên làm bàn thờ Chúa
Ống nhổ sạch bóng và sáng ngời
Ta có thể trả cho những cái này
Hãy đi lại đây, chàng trai!


Brass spittoons

Clean the spittoons, boy.
Detroit,
Chicago,
Atlantic City,
Palm Beach.
Clean the spittoons.
The steam in hotel kitchens,
And the smoke in hotel lobbies,
And the slime in hotel spittoons:
Part of my life.
Hey, boy!
A nickel,
A dime,
A dollar,
Two dollars a day.
Hey, boy!
A nickel,
A dime,
A dollar,
Two dollars
Buy shoes for the baby.
House rent to pay.
Gin on Saturday,
Church on Sunday.
My God!
Babies and gin and church
And women and Sunday
All mixed with dimes and
Dollars and clean spittoons
And house rent to pay.
Hey, boy!
A bright bowl of brass is beautiful to the Lord.
Bright polished brass like the cymbals
Of King David’s dancers,
Like the wine cups of Solomon.
Hey, boy!
A clean spittoon on the altar of the Lord.
A clean bright spittoon all newly polished—
At least I can offer that.
Com’mere, boy!


LAO CÔNG

(Porter)


Tôi phải nói
Vâng, thưa ngài!
Với ông trong mọi ngày.
Vâng, thưa ngài!
Vâng, thưa ngài!
Suốt cả cuộc đời tôi
Chạy lên ngọn núi lớn
Của vâng, thưa ngài!

Nhà giàu da trắng
Giành cả thế giới này
Cho phép tôi
Xin được đánh giày
Vâng, thưa ngài!


Porter

I must say
Yes, sir,
To you all the time.
Yes, sir!
Yes, sir!
All my days
Climbing up a great big mountain
Of yes, sirs!

Rich old white man
Owns the world
Gimme yo' shoes
To shine
Yes, sir!


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét