© Nguyễn Viết Thắng giới thiệu, dịch và chú giải. Không đăng lại trên những trang Web với mục đích thương mại.

Thứ Sáu, 26 tháng 5, 2017

Thơ Ralph Waldo Emerson & Derek Walcott


23 NHÀ THƠ MỸ
























Ralph Waldo Emerson (25 tháng 5 năm 1803 – 27 tháng 4 năm 1882) – nhà văn, nhà thơ, nhà triết học Mỹ. Emerson là người sáng lập chủ nghĩa siêu việt (transcendentalism) – một phong trào triết học và văn học của các thập niên 30-60, thế kỷ XIX, những ý tưởng cơ bản được thể hiện trong bản tuyên ngôn luận “Nature” (1832). Triết học của ông đề cập đến các vấn đề về nhân cách, tự do, mối quan hệ giữa tinh thần và tự nhiên.

Tiểu sử:
Emerson sinh ngày 25 tháng 5 năm 1803 trong gia đình một linh mục theo thuyết nhất vị. Tiếp tục nghề của cha mình, ông vào học khoa thần học của đại học Harvard. Tốt nghiệp đại học, ông giảng dạy ở New England, nhưng kể từ năm 1832, vì bất đồng với các chức sắc giáo hội về lễ thông công và nghi ngại về việc cầu nguyện đã dẫn đến việc ông từ chức. Ông sống bằng nghề thuyết giảng và nhuận bút từ việc đăng thơ trên các tạp chí. Sau khi kết hôn lần thứ hai vào năm 1835, ông chuyển đến Concord và liên tục giảng dạy tại Hoa Kỳ, Canada, Pháp và Anh. Đến năm 1850 trở thành người nổi tiếng vượt xa biên giới của tiểu bang Massachusetts.

Theo thời gian, ông viết lại các bài giảng cũ của mình, tập hợp lại, in thành những tác phẩm như Các bài luận (Essays: First Series, 1841; Essays: Second Series, 1844); Những đại diện của nhân loại (Representative Men, 1850); Những đặc điểm của đời sống Anh (English Traits, 1856); Triết học đạo đức (The Conduct of Life, 1860). Các năm 1846 và năm 1867 xuất bản một cuốn sách thơ của ông. Một số bài thơ của ông – Thần Brahma (Brahma), Ngày (Days), Bão tuyết (The Snow-Storm)… đã trở thành các tác phẩm kinh điển của văn học Mỹ. Ông qua đời ở Concord ngày 27 tháng 4 năm 1882. Sau khi qua đời, cuốn Nhật ký (Journals, 1909—1914) của ông cũng được xuất bản.

Học thuyết của Emerson là lời kêu gọi hướng tới sự tự chủ cá nhân, sự phát triển tự do của thiên tài, thứ vốn có ở mỗi con người, hòa nhập với thiên nhiên, nhận thức vũ trụ thông qua sự tự khám phá bản thân mình.

Tư tưởng và ý nghĩ của Emerson vẫn còn tính thời sự cho đến tận ngày hôm nay. Ông có sự ảnh hưởng đến các nhà văn, nhà thơ, nhà hoạt động xã hội của nước Mỹ như: Henry Thoreau, Walt Whitman, Herman Melville, Nathaniel Hawthorne, Emily Dickinson và Robert Frost. Ở Đức, Pháp, Nga ông có sự ảnh hưởng đến Friedrich Nietzsche, Maurice Maeterlinck, Henri Bergson, Charles Baudelaire, Leo Tolstoy.

Một số bài thơ


BRAHMA

Nếu kẻ giết người nghĩ rằng đã giết
Nếu kẻ bị giết nghĩ đã chết rồi
Thì cả hai đã không hề biết được
Con đường mong manh xuôi ngược muôn đời.

Xa xôi hay lãng quên – ta ở gần
Khác gì nhau bóng hay là ánh sáng
Thần khác mất để cho ta xuất hiện
Quan trọng gì cái chuyện nhục hay vinh.

Ai tìm kiếm ta bên ngoài cho mình
Những kẻ này ta ban cho đôi cánh
Mối nghi ngờ ở trong ta lớn mạnh
Ta là thánh ca của đạo Bà La Môn.

Ta ở nơi xanh tốt những cây tùng
Bảy vị Thánh kiếm tìm cho phí uổng
Hỡi người yêu dấu mong điều cao thượng!
Hãy tìm ta, quay lại với trời xanh.
_______
*Brahma – vị thần của đạo Hindu.


KHÔNG CÒN GIẤC NGỦ CÁI CHẾT CŨNG KHÔNG
(Sleep is not, death is not)

Không còn giấc ngủ, cái chết cũng không
Người có vẻ chết rồi, còn sống đấy
Và cái ngôi nhà, nơi mà bạn sinh
Và những bạn bè của ngày thơ bé
Một ông già và một cô gái trẻ
Và thành quả của ngày tháng nhọc nhằn
Thảy đều biến mắt tăm vào đâu đấy
Và trở nên những câu chuyện hoang đường. 



NHẪN NHỊN
(Forbearance)

Bạn biết tất cả loài chim mà không cần đi săn?
Bạn yêu hoa hồng mà không cần đưa tay bẻ?
Ngồi ở bàn ăn của người giàu ăn bánh mì và đậu?
Không vũ trang, đối mặt nguy hiểm với lòng tin?
Và bạn thường rất yêu những hành vi cao cả
Kiệm lời khen, dù với đàn ông hay phụ nữ
Đáp lại cao thượng bằng điều cao thượng hơn?
Hãy là bạn tôi và dạy cho tôi được như bạn nhé!


23 NHÀ THƠ MỸ


























Derek Walcott (23 tháng 1 năm 1930 – 17 tháng 3 năm 2017) – nhà thơ, nhà soạn kịch Saint Lucia đoạt giải Nobel Văn học 1992 “vì những sáng tác giàu chất thơ, mang đậm tính lịch sử, là kết quả của một nền văn hóa trong sự đa dạng của nó”. Được thừa hưởng sự kết hợp nền văn hóa Caribe cùng với di sản thuộc địa Anh, Derek Walcott trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu nhất của thi ca đương đại. Walcott cũng nổi tiếng vì niềm đam mê đi du lịch đến các quốc gia trên thế giới. Ông chia tách thời gian của mình giữa New York, Boston và St Lucia, kết hợp sự ảnh hưởng của các khu vực khác nhau vào tác phẩm của mình. 

Tiểu sử:
Derek Walcott sinh ngày 23-01-1930 ở Castries, đảo Saint Lucia. Học trường cao đẳng St. Mary's College ở quê hương Saint Lucia. Tốt nghiệp Đại học West Indies ở Jamaica năm 1953, D. Walcott làm giáo viên trường phổ thông rồi phóng viên của các tờ báo “Public Opinion” và “Trinidad Guardian”. Năm 18 tuổi in 25 bài thơ bán trên đường phố Castries nhưng thực sự nổi tiếng với tập thơ Đêm xanh (1962). Với tập thơ này D. Walcott được đánh giá là nhà thơ của xứ thuộc địa đã sáng tạo ra tác phẩm ngang hàng với các nhà thơ nổi tiếng nhất ở chính quốc. Thơ của D. Walcott chủ yếu được viết bằng tiếng Anh, đôi khi mang sắc thái ngôn ngữ địa phương. Ngoài những tác phẩm thơ, ông còn nổi tiếng trong lĩnh vực sáng tác kịch, trong đó phải kể đến vở Lễ tưởng niệm và vở kịch câm (1980). Một số vở kịch của ông được viết bằng thơ. Năm 1959 ông thành lập nhà hát Trinidad và viết nhiều vở kịch cho nhà hát này.

D. Walcott đi du lịch rất nhiều nước nhưng các tác phẩm của ông mang nặng các yếu tố của xã hội Jamaica với sự du nhập văn hóa từ Châu Phi, Châu Á, Châu Âu. Trong nhiều năm ông sống ở Trinidad, dạy văn học và cách viết văn sáng tạo ở đại học Boston. D. Walcott từ chối danh hiệu công dân Anh quốc và nhập quốc tịch Saint - Lucia - một quốc đảo có đường kính 25 dặm với gần 25.000 người dân. Cho đến nay ông đã xuất bản hơn 40 tập thơ và kịch. Kinh nghiệm sống tại một đất nước thuộc địa của Anh đã có ảnh hưởng rất lớn tới cuộc đời và sáng tác của ông. Nhà thơ Mỹ gốc Nga Brodsky (giải Nobel 1987) là người bạn gần gũi thân thiết của D. Walcott đã viết về quê hương xứ sở của ông như sau: "Colombo đã tìm ra nó, người Anh đã chiếm nó làm thuộc địa và Derek Walcott làm cho nó trở thành bất tử."

Năm 1981, D. Walcott được nhận giải "Giành cho các thiên tài" 250.000 USD của quỹ John và Katrin Makartuz. Năm 1992 ông nhận giải Nobel vì đã sáng tạo nên những mẫu mực thơ ca tuyệt vời của xứ Caribe.

Derek Walcott qua đời ở nhà riêng tại Cap Estate, St Lucia, ngày 17 tháng 3 năm 2017, thọ 87 tuổi. Tang lễ cử hành ngày 25 tháng 3 tại nhà thờ Basilica of the Immaculate Conception và mai táng tại Morne Fortune. 

Tác phẩm:
- 25 bài thơ (25 poems, 1948), thơ.
- Văn mộ chí cho chàng trai trẻ (Epitaph for the young, 1949), thơ.
- Đêm xanh. Thơ 1948-1960 (In a green night. Poems 1948- 1960), thơ.
- Người đắm tàu và những bài thơ khác (The castaway and other poems, 1965) thơ.
- Vịnh và những bài thơ khác (Gulf and other poems, 1969), thơ.
- Cuộc đời khác (Another life, 1973), thơ.
- Nho biển (Sea grapes, 1978), thơ.
- Vương quốc Star-Apple (The Star-Apple kingdom, 1979), thơ.
- Lễ tưởng niệm và kịch câm (Remember and pantomime, 1980), kịch.
- Người lữ hành may mắn (The fortunate traveller, 1981), thơ.
- Giữa mùa hè (Midsummer, 1984), thơ.
- Giấc mơ trên đồi khỉ và những vở kịch khác (Dream on monkey mountain and other plays, 1970), kịch.
- Thịt bò, không thịt gà (Beef, no chicken, 1985), kịch.
- Chúc thư Arkansas (The Arkansas testament, 1987), thơ.
- Omeros (Omeros, 1990), thơ. 
- Odyssey (The Odyssey, 1993), kịch.

- Đứa con phóng đãng (The prodigal, 2004), thơ.

Một số bài thơ



TÌNH YÊU SAU MỘT TÌNH YÊU

Rồi sẽ đến một ngày
Khi nhìn vào gương
Với chính mình, em cười mỉm.
Rồi sẽ đến một ngày
Con tim em hồi hộp
Khi nghe tiếng bàn chân em bước
Bên ngưỡng cửa nhà em.

Thì em hãy mời vào nhà chính bản thân mình
Thết rượu vang, bánh mì và trả lại con tim
Và hãy nhận về cho mình – một người quen xa lạ
Người ấy với em chung thủy
Yêu em suốt cả cuộc đời
Người ấy vì em mà mệt mỏi rã rời.

Em hãy cất khỏi chiếc bàn chân dung của những kẻ xa vời
Những bức thư tình, những bài thơ tuyệt vọng…
Rồi ngồi xuống bên bàn. Mở tiệc mừng long trọng
Mừng cho bản thân mình. Mừng cho cuộc đời em.


KHÔNG CẦN GÌ NGOÀI LÒNG CHÂN THẬT

Tôi sống gần bên bờ biển
Một mình. Không vợ, không con
Và bằng rất nhiều con đường
Để đi và đến.

Ngôi nhà thấp bên biển
Cửa sổ bao giờ cũng mở toang
Về phía biển thân quen.

Không ai có thể chọn cho mình công việc
Ta chỉ là thành qủa của những việc ta làm.
Năm tháng đi qua, ta quên điều lo sợ

Nhưng còn lại khát khao được vượt qua
Tình yêu – như tảng đá
Rơi vào đáy biển bao la

Bây giờ tôi không còn đòi hỏi gì ở thơ ca
Ngoài lòng chân thật
Không sự vinh quang, không thương xót

Nếu vợ lặng im thì có thể cùng ngồi bên bờ biển với nhau
Vách đá vẫn còn giữa những con sóng bạc đầu
Sóng sẽ mang lên bờ rác rưởi của những gì hèn kém

Và tôi phải quên đi thói quen cảm nhận
Quên đi tài năng của mình
Nhưng điều này còn khó khăn hơn
Là nhận về cho mình cuộc sống.



CHÂN DUNG TỰ HỌA

Sự cô đơn của Van Gogh
Sự cùng quẫn của Van Gogh
Sự khủng khiếp của Van Gogh.

Ông nhìn vào gương
và bắt đầu vẽ mình. 

Trong gương không ai cả
ngoài Vincent Van Gogh.
Điều này thì không đủ. 

Ông cắt đứt tai của mình.
Rồi ông nhìn vào gương:
đấy là Vincent Van Gogh
với tai quấn băng. 

Điều này giống bức chân dung
ông cố gắng ở lại đấy
nhưng trước hết ra khỏi là cần 

ông đến từ sự giảm thấp
hơn cả sự kinh hoàng
bởi một quá trình cô đơn. 

khi gương phản chiếu một điều
không vinh quang, chẳng nỗi đau
chẳng không, chẳng có

không có thể, hoặc không một lúc nào đó
trên khung vẽ chảng có ai
không còn Vincet Van Gogh

sợ hãi, cô đơn, phờ phạc
chỉ điều bịa đặt hoàn toàn. 

Và đó là bản chất. 



NHO BIỂN

Cánh buồm hướng về ánh sáng
mệt mỏi vì những hòn đảo
con thuyền bơi trên biển Ca-ri-bê

đi về nhà, có lẽ đấy là Ô-đi-xê
đang bơi thuyền trên biển Aegea
đấy là người chồng, người bố

nỗi buồn, dưới chùm nho chua xương xẩu
về người tình phụ, và tên nàng Nausicaa 
còn nghe trong tiếng kêu của từng chú hải âu. 

Điều này không mang lại bình yên. Cuộc chiến đã lâu
giữa đam mê và trách nhiệm
không kết thúc bao giờ với kẻ lữ hành trên biển

và cả với kẻ lữ hành đang ở trên bờ
đang mang giày dép để chuẩn bị về nhà
từ khi Tơ-roa khóc lên trong lửa cuối. 

và kẻ khổng lồ mù ném đá
làm sóng trào, xuất hiện những vần thơ
những con sóng rã rời trên biển Ca-ri-bê.

Các nhà thơ cổ điển có thể an ủi. Nhưng chưa đủ. 

== = = =========
*Nausicaa – con gái của vua Alcinous và nữ hoàng Phaeacia (Scheria) nhân vật nữ trong trường ca Ô-đi-xê của Homer. Nausicaa yêu Ô-đi-xê và muốn trở thành vợ chàng nhưng Ô-đi-xê vì nghĩa lớn đã bỏ hòn đảo của nàng để lên đường. Sau này Nausicaa trở thành vợ của con trai Ô-đi-xê. 



ODDJOB, A BULL TERRIER

Bạn chờ đợi một nỗi buồn
thì một nỗi buồn khác đến.
Nó với tiết trời không giống
chỉ đơn giản
bạn còn thiếu sự chuẩn bị thôi mà. 
Chúng ta vẫn thường lo
cho người bạn đường, cho người phụ nữ
cho người bạn của ta
cho đứa con thơ
và cho con chó
ta nhìn ra biển và suy nghĩ
chắc trời sẽ đổ mưa
và ta chuẩn bị đón cơn mưa. 
Bạn không hề nhìn ra
mối liên hệ của ánh mặt trời
đổi thay trên ngọn trúc đào màu sậm
trong khu vườn bên biển
và màu vàng từ cây cọ mà ra
Bạn cũng chẳng nhìn ra
mối liên hệ của giọt nước mưa
trên da thịt bạn
với tiếng rên của con chó trong nhà.
bạn không sợ gì tiếng sấm
sự sẵn sàng là tất cả thôi mà
những gì theo sau bàn chân bạn
muốn nói với bạn rằng
sự im lặng – đó là tất cả
nó còn sâu hơn cả sự sẵn sàng
nó sâu như đại dương
nó sâu như đất
nó sâu như tình. 

Sự lặng im
còn mạnh hơn tiếng sấm
làm cho ta sâu, làm ta mất giọng
như loài vật không biết nói về tình
ta làm sao nếu như nó trở thành
một thứ gì không thể tả
nhưng mà ta phải nói về tình
trong tiếng khóc thầm
trong nước mắt
bằng giọt mưa rơi trên mí mắt
không gọi tình yêu đúng tên sự vật
sự im lặng của người đã khuất
sự im lặng về tình ở nơi sâu thẳm nhất
đấy cũng là một sự im lặng thôi mà
và liệu chúng ta có biết mang cho
từng con thú, đứa con, người bạn, người phụ nữ
đấy cũng là một thứ tình yêu như thế
đấy là phước trời ban
sâu nhất nhờ mất mát
đấy là phước trời ban, đấy là phước trời ban. 


SỰ KẾT THÚC

Mọi thứ không hề bùng nổ
chúng chỉ tàn lụi, mờ dần

như ánh mặt trời mờ trên da thịt
như bọt biến nhanh vào cát

ngay cả tia chớp của ái tình
không kết thúc bằng tiếng sấm vang lên

bông hoa chết cùng với âm thanh
cũng lụi tàn y như là thân xác

từ mồ hôi của đá bọt
trùm lên mọi thứ giữa thiên nhiên

một khi chúng ta còn sống trên trần
phải chịu sự im lặng bao quanh đầu của Beethoven. 

Thứ Sáu, 17 tháng 2, 2017

Thơ Emily Dickinson


Emily Elizabeth Dickinson (12 /10 /1830 – 15 /5 /1886) – nhà thơ Mỹ, cùng với Walt Whitman, Emily Dickinson là nhà thơ đặc sắc nhất của Mỹ thế kỉ XIX.

Tiểu sử:
Emily Dickinson sinh ở Amherst, Massachusetts trong một gia đình có 3 người con. Emily có anh trai William và em gái Lavinia. Bố là luật sư và là Thượng nghị sĩ Quốc Hội. Học xong trường College, Emily Dickinson sống một cuộc sống thu mình, hầu như không ra khỏi nhà. Việc làm thơ của bà cũng không một ai biết. Những bài thơ đầu tiên của bà được in năm 1890 nhưng không mấy ai để ý. Tuyển tập thơ đầu tiên chỉ được in ra vào năm 1955.

Thế kỷ XX, Emily Dickinson được thừa nhận là một nhà thơ lớn của nước Mỹ. Bà là người đầu tiên trong thơ Mỹ sử dụng lối thơ hai câu liền vần (para-rhyme). Emily Dickinson để lại cho đời gần 2000 bài thơ. Những bài thơ nho nhỏ nhưng được đáng giá là đầy ắp những ý tưởng mới lạ và độc đáo. Thơ của Emily Dickison được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, trong đó có tiếng Việt.

Tác phẩm:
*The Complete Poems of Emily Dickinson. Boston, 1960
*The Poems of Emily Dickinson. Cambridge, 1999
*Emily Dickinson's Herbarium. Cambridge, 2006 
*The Gardens of Emily Dickinson. Cambridge,2004
  
20 bài thơ



47
Heart! We will forget him!

Nào, con tim! Về người ấy đêm này
Ta và mi hãy cùng quên lãng.
Ta sẽ quên nguồn sáng
Còn mi – nồng ấm, mê say.

Khi quên rồi, mi hãy nói cho ta
Để ta, sẽ bắt đầu tim nhé
Chứ bây giờ mi lần lữa
Thì ta vẫn cứ nhớ về.


47
Heart! We will forget him!
You and I - tonight!
You may forget the Warmth he gave -
I will forget the Light!

When you have done, pray tell me
That I may straight begin!
Haste! lest while you're lagging
I may remember him!


93
A sepal, petal, and a thorn

Này đài hoa, cánh hoa và gai nhỏ
Trong buổi sáng bình minh
Những giọt sương – một vài con ong
Nụ bạch hoa trên cây và cơn gió
Và tôi là một đóa hoa hồng!

93
A sepal, petal, and a thorn
Upon a common summer's morn —
A flask of Dew — A Bee or two —
A Breeze — a caper in the trees —
And I'm a Rose!
******
*****
135
Water, is taught by thirst

Yêu nước – những ai trong cơn khát
Quí đất – người đang giữa đại dương
Vui sướng, hân hoan chỉ biết đến khi buồn
Ai đang chiến đấu – kẻ yêu hoà bình nhất.
Còn ta yêu – là khi tình đã mất
Khi tuyết trắng trời ta lại nhớ về chim.


135
Water, is taught by thirst;
Land - by the Oceans passed.
Transport - by throe -
Peace - by its battles told -
Love, by Memorial Mold -
Birds, by the Snow.



181
I lost a World — the other day!

Tôi đánh mất Thế giới ngày hôm qua
Không biết có ai đã tìm thấy nó?
Dấu hiệu nhận biết: là dải ngân hà
Ngàn vạn ngôi sao ở quanh thân nó.

Quả chẳng đáng gì với người giàu có
Nhưng nó là báu vật đối với tôi
Ngay tiền vàng cũng không là gì cả
Xin hãy tìm và trả lại cho tôi.

181
I lost a World — the other day!
Has Anybody found?
You’ll know it by the Row of Stars
Around its forehead bound.

A Rich man — might not notice it —
Yet — to my frugal Eye,
Of more Esteem than Ducats —
Oh find it — Sir — for me!


182
If I shouldn't be alive

Nếu như trời không cho tôi sống đến
Ngày những con chim cổ đỏ bay về
Thì mẩu bánh mỳ để làm kỷ niệm
Hãy ném cho một trong số chim kia.

Và nếu như lời cám ơn với bạn
Do ngủ say mà chưa nói lên lời
Thì bạn hãy hiểu đó là ý muốn
Từ đôi bờ môi bằng đá của tôi.

182
If I shouldn't be alive
When the Robins come,
Give the one in Red Cravat,
A Memorial crumb.

If I couldn't thank you,
Being fast asleep,
You will know I'm trying
With my Granite lip!



185
"Faith" is a fine invention

Lòng tin – đấy là điều tốt đẹp
Cho những quí ông nhìn thấy rõ ràng
Nhưng kính hiển vi cần để dự phòng
Trong trường hợp khẩn cấp!

185
"Faith" is a fine invention
For gentlemen who see;
But microscopes are prudent
In an emergency!


224
I've nothing else - to bring, You know

Em chẳng có gì mới mẻ với anh đâu
Bởi biết bao ngày ta đã sống
Bởi đêm vẫn gìn giữ những vì sao
Mà mắt ta đã quen nhìn ngắm.

Có thể không từng để ý hai ta
Nhưng nếu mà không có chúng
Thì đường trở về nhà
Tìm ra ta đã chẳng.


224
I've nothing else - to bring, You know
So I keep bringing These-
Just as the Night keeps fetching Stars
To our familiar eyes-

Maybe, we shouldn't mind them-
Unless they didn't come-
Then - maybe, it would puzzle us
To find our way Home -
  

260
I'm nobody! Who are you?

Tôi không là ai! Còn bạn là ai?
Bạn cũng không là ai, có phải vậy?
Chúng ta thành một đôi, nhưng đừng nói
Kẻo họ sẽ đuổi ta, bạn biết rồi.

Thật đáng buồn khi phải là ai đó!
Trước mọi người, như một con ễnh ương
Nhắc cái tên mình suốt ngày suốt đêm
Cho đám đông như bãi lầy ái mộ.

260
I'm nobody! Who are you?
Are you nobody, too?
Then there's a pair of us--don't tell!
They'd banish us, you know.

How dreary to be somebody!
How public, like a frog
To tell your name the livelong day
To an admiring bog!



314
 “Hope” is the thing with feathers –

Hy vọng là một con chim
Con chim nhỏ ở trong hồn
Giai điệu không lời chim hát
Và không bao giờ lặng im.

Cho dù giữa trận cuồng phong
Tiếng chim càng ngọt ngào hơn
Ôi tiếng hát con chim nhỏ
Cất lên sưởi ấm bao lòng.

Tôi nghe ở nơi lạnh lùng
Ở nơi biển chẳng hề quen
Mà chim không hề đòi hỏi
Dù là mẩu bánh mỳ con.

314
“Hope” is the thing with feathers –
That perches in the soul –
And sings the tune without the words –
And never stops – at all –

And sweetest – in the Gale – is heard –
And sore must be the storm –
That could abash the little Bird
That kept so many warm –

I've heard it in the chillest land –
And on the strangest Sea –
Yet, never, in Extremity,
It asked f crumb – of Me.



377
To lose one's faith – surpass

Mất lòng tin – tệ hơn
Là đánh mất tiền của
Tiền của mất rồi có
Nhưng lòng tin thì không.

Di sản với cuộc đời
Chỉ một lần cho bạn
Bạn trở thành phá sản
Dù bỏ một dòng thôi.

377
To lose one's faith -- surpass
The loss of an Estate --
Because Estates can be
Replenished -- faith cannot --

Inherited with Life --
Belief -- but once -- can be --
Annihilate a single clause --
And Being's -- Beggary --
  

441
This is my letter to the World

Đây bức thư tôi tôi viết cho thế gian
Mà sau cho tôi không cần viết lại
Bằng điều giản đơn Thiên nhiên đã nói
Và kèm theo sự dịu nhẹ trang nghiêm.

Tôi trao nó cho bàn tay vô hình
Mà muôn thuở tôi không hề biết được
Hãy nuôi dưỡng một tình yêu dịu ngọt
Và nhẹ nhàng phán xét nhé đồng hương.

441
This is my letter to the World
That never wrote to Me —
The simple News that Nature told —
With tender Majesty

Her Message is committed
To Hands I cannot see —
For love of Her — Sweet — countrymen —
Judge tenderly — of Me.



449
I died for Beauty — but was scarce

Tôi đã chết vì cái đẹp
Ngay vừa khi xuống mộ tôi nằm
Người bên cạnh liền hỏi thăm
Vì điều gì mà tôi đã chết.

Tôi trả lời: “Tôi chết vì cái đẹp”
Và tôi hiểu người ấy vui mừng
Người nói rằng: “Còn tôi vì Sự thật
Chúng ta là những anh em”.

Chúng tôi như người bà con hằng đêm
Chuyện trò thâu đêm suốt sáng
Một  khi rêu chưa che kín miệng
Và chưa phủ lên những cái tên. 

449
I died for Beauty — but was scarce
Adjusted in the Tomb
When One who died for Truth, was lain
In an adjoining Room —

He questioned softly why I failed?
"For Beauty," I replied —
"And I — for Truth — Themself are One—
We Brethren are," He said—

And so, as Kinsmen, met at Night —
We talked between the Rooms —
Until the Moss had reached our lips—
And covered up — our names —


686
They say that "Time assuages" –

Nghe rằng: “Thời gian làm lành hẳn”
Thời gian không chữa khỏi bao giờ.
Nỗi đau giống như bắp cơ
Càng săn chắc theo năm tháng.

Nhưng thời gian sẽ kiểm tra
Qua khổ đau có còn lành lặn
Nghĩa là, ta buồn lo cho phí uổng
Nghĩa là ta chưa đau khổ bao giờ.


686
They say that "Time assuages" -
Time never did assuage-
An actual suffering strengthens
As Sinews do, with age-

Time is a Test of Trouble,
But not a Remedy-
If such it prove, it prove too
There was no Malady-



712
Because I could not stop for Death – 

Bởi vì tôi không dừng chờ thần chết
Nên ngài vui lòng dừng lại chờ tôi
Thành ra chuyến xe gồm có ba người
Đó là: tôi, bất tử và thần chết.

Chúng tôi thư thả, thần chẳng vội vàng
Và tôi dẹp sang một bên mọi thứ
Sự nghỉ ngơi và cả công việc nữa
Chỉ vì do sự lịch thiệp của thần.

Chúng tôi qua ngôi trường, nơi trẻ con
Đang giải lao, giờ học vừa kết thúc
Xe chúng tôi trên cánh đồng tiếp tục
Khi mặt trời đang xuống – buổi hoàng hôn.

Chính xác hơn – là mặt trời đi ngang
Qua chúng tôi, sương bắt đầu rơi lạnh
Quần áo tôi tất cả bằng vải mỏng
Và chỉ mong manh một tấm khăn choàng.

Thế rồi chúng tôi dừng trước ngôi nhà
Giống như đất trồi lên thành đống vậy
Hình dáng mái nhà không nhìn đâu thấy
Còn mái đua nằm trong mặt đất kia.

Kể từ đó nhiều thế kỷ trôi qua
Mà với tôi như một ngày là thế
Tôi đoán rằng những cái đầu ngựa ấy
Vẫn hướng theo sự bất tử bay về.

712
Because I could not stop for Death –
He kindly stopped for me –
The Carriage held but just Ourselves –
And Immortality.

We slowly drove – He knew no haste
And I had put away
My labor and my leisure too,
For His Civility –

We passed the School, where Children strove
At Recess – in the Ring –
We passed the Fields of Gazing Grain –
We passed the Setting Sun –

Or rather – He passed Us –
The Dews drew quivering and chill –
For only Gossamer, my Gown –
My Tippet – only Tulle –

We paused before a house that seemed
A Swelling of the Ground –
The Roof was scarcely visible –
The Cornice – in the Ground –

Since then – 'tis Centuries – and yet
Feels shorter than the Day –
I first surmised the Horses' Heads
Were toward Eternity –



887
We outgrow love like other things

Ta chăm chút tình yêu giống như áo quần
Và sau đó ta đem cất vào tủ
Cho đến một khi trở thành đồ cổ
Thì ta lấy ra từ đó và mang.


887
We outgrow love like other things
And put it in the Drawer -
Till it an Antique fashion shows -
Like Costumes Grandsires wore.



919
If I can stop one heart from breaking

Giá mà tôi ngăn được một trái tim tan vỡ
Thì tôi sẽ sống trên đời này chẳng hoài công
Giá tôi làm dịu được nỗi đau của cuộc đời ai đó
Hay hàn gắn được cho ai dù một vết thương lòng

Hoặc giá tôi giúp được cho một chú chim non
Tìm được đường để quay trở về lại tổ
Thì tôi sẽ sống trên đời này chẳng hoài công.

919
If I can stop one heart from breaking,
I shall not live in vain;
If I can ease one life the aching,
Or cool one pain,

Or help one fainting robin
Unto his nest again,
I shall not live in vain.


1052
I never saw a Moor –

Chưa bao giờ thấy biển
Hay đồng cỏ bao giờ
Nhưng mà tôi biết sóng
Biết cây cỏ đung đưa.

Chưa chuyện trò với Chúa
Chưa có mặt trên trời
Nhưng biết nơi cấp vé
Biết Chúa chẳng quên tôi.

1052
I never saw a Moor –
I never saw the Sea –
Yet Know I how the Heather looks
And what a Billow be.

I never spoke with God
Nor visited in Heaven –
Yet certain am I of the spot
As if the Checks were given.


1129
Tell all the Truth but tell it slant –

Nói sự thật, nhưng một chút vòng vo
Muốn thành công quanh co hơn là thẳng
Niềm hân hoan cho tâm hồn nguy hiểm
Và sẽ ngạc nhiên trước sự thật kia.

Như con trẻ không sợ gì tiếng sét
Là bởi vì được giải thích kỹ càng
Sự thật phải để tỏa sáng dần dần
Nếu không muốn cho một ai mù mắt.

1129
Tell all the Truth but tell it slant –
Success in Circuit lies
Too bright for our infirm Delight
The Truth's superb surprise

As Lightning to the Children eased
With explanation kind
The Truth must dazzle gradually
Or every man be blind –

  

1263
There is no Frigate like a Book

Không có thuyền nào bằng cuốn sách
Đưa chúng ta đi khắp mọi nơi
Không có ngựa nào bằng trang sách
In câu thơ yên ngựa tuyệt vời.

Người giàu hay nghèo cũng vậy thôi
Quyền hành ở đây như nhau cả
Không có cỗ xe nào đáng giá
Bằng cỗ xe chuyên chở hồn người.

1263
There is no Frigate like a Book
To take us Lands away
Nor any Coursers like a Page
Of prancing Poetry—

This Traverse may the poorest take
Without oppress of Toll—
How frugal is the Chariot
That bears the Human soul.


1470
The Sweets of Pillage, can be known

Sự ngọt ngào của việc trộm cướp
Chỉ tên trộm là có thể hiểu ra
Lòng thương hại cho sự trung thực
Là nỗi buồn cao thượng của hắn ta.

1470
The Sweets of Pillage, can be known
To no one but the Thief —
Compassion for Integrity
Is his divinest Grief —